Cần có những nhận định khác nhau về sản xuất bội thu và giá xuất khẩu tốt tại ĐBSCL nhưng giảm lượng xuất khẩu gạo.
Nhìn chung, xét về chủ quan, các doanh nghiệp ngành gạo đều đang tập trung nhiều hơn vào cải thiện chất lượng gạo để đáp ứng các tiêu chuẩn khắt khe của nhiều thị trường; trong khi đó, xét về khách quan, nhu cầu tích trữ thực phẩm trên thị trường thế giới đang tăng lên và giá gạo Thái Lan, Ấn Độ chạm mức cao kỷ lục trong những năm gần đây. Trong bối cảnh này, Việt Nam có thể “thoải mái” chờ đợi kết quả xuất khẩu gạo tích cực trong những tháng tới. Tuy nhiên, kịch bản thực tế lại không như vậy do một số lý do sau.
Thứ nhất, hiện vẫn chưa rõ cơ sở cho nhận định “Nhu cầu quốc tế cao đối với tích trữ thực phẩm thúc đẩy giá gạo thế giới” nhưng hai cơ quan uy tín nhất về ngành gạo, bao gồm Bộ Nông nghiệp Mỹ (USDA) và Tổ chức Nông lương Thế giới (FAO) có những nhận định rất khác.
Theo dự báo mới nhất của Bộ Nông nghiệp Mỹ, tồn kho gạo toàn cầu hồi đầu năm 2021 ở mức cao, gần 178 triệu tấn. Mặc dù lượng tích trữ tăng không nhiều so với cùng kỳ năm 2020, tồn kho gạo toàn cầu vẫn cao hơn 14 triệu tấn so với cùng kỳ năm 2019 và đủ để đáp ứng nhu cầu tiêu dùng trong hơn 129 – 130 ngày. Rõ ràng, đây là kịch bản trái ngược với giai đoạn khi dự trữ gạo toàn cầu ở mức thấp, chỉ đủ đáp ứng thời gian tiêu dùng chỉ hơn 1 nửa so với thời gian nói trên (khoảng 64 – 68 ngày trong giai đoạn 2006 – 2009). Đối với nhu cầu tiêu dùng lên tới 80 ngày, thời gian tồn kho gạo có thể đáp ứng nhu cầu này kéo dài tới 7 năm (2005 – 2011), là giai đoạn giá gạo lên cơn sốt. Hơn nữa, USDA cũng lập luận rằng diện tích trồng lúa trong năm 2021 đã tăng khá mạnh, dẫn tới sản lượng gạo tăng khoảng 10 triệu tấn so với năm 2020.
Trong bối cảnh này, nhập khẩu gạo thế giới năm 2021 dự báo chỉ ở mức 43,7 triệu tấn, tăng 1,33 triệu tấn so với năm 2020, trong khi nhập khẩu gạo năm 2020 giảm 1,65 triệu tấn so với năm 2019. Hệ quả là nhập khẩu gạo toàn cầu đang trong xu hướng giảm so với mức nhập khẩu cao kỷ lục đạt 47,2 triệu tấn trong năm 2018. Thống kê và dự báo từ FAO lại có phần khác biệt, dù nhìn chung có nhận định cùng xu hướng. Do đó, không thể lấy một hiện tượng nhất thời để đánh giá cung – cầu gạo thế giới như được đề cập. Đây cũng là điểm không thuyết phục khi xét tới chính sách hạn ngạch xuất khẩu gạo tại Việt Nam hồi đầu năm 2020.
Thứ hai, giá gạo Thái tăng là thực tế nhưng có thể do các nguyên nhân bất khả kháng, trong khi thông tin về giá gạo Ấn Độ sẽ tăng vượt mức kỷ lục trong những năm gần đây cần theo dõi thêm. Xuất khẩu gạo của Ấn Độ trong 2 tháng đầu năm 2021 tăng mạnh, chủ yếu do giá gạo Ấn Độ giảm mạnh nhất kể từ khi kết thúc đợt sốt giá gạo thế giới. Theo thống kê chính thức, xuất khẩu gạo Ấn Độ trong 2 tháng đầu năm đạt 3,63 triệu tấn, tăng vọt 84,2% so với cùng kỳ năm 2020, nhưng giá trung bình chỉ 460 USD/tấn, thấp nhất từ năm 2008. Đáng chú ý, trong khi xuất khẩu gạo thơm giảm, xuất khẩu gạo non-basmati tăng vọt 162,1%. Giá gạo basmati xuất khẩu trung bình trong 2 thngs đầu năm đạt 855 USD/tấn, mức thấp nhất từ năm 2017, và giá gạo trắng đạt 353 USD/tấn, mức thấp nhất kể từ năm 2008.
Đồng thời, giá gạo Thái tăng từ năm 2020 vì những lý do vượt lên dự báo của các thương nhân ngành gạo Thái Lan, ngoài các lý do tương tự với Việt Nam. Thiệt hại mùa màng rất nghiêm trọng trong thời gian đầu năm 2020 do hạn hán kỷ lục trong nhiều thập kỷ, lũ lụt làm chi phí sản xuất tăng, chính sách bình ổn giá và đồng Baht Thái tăng đều là các yếu tố đẩy giá gạo Thái tăng. Sự tổng hợp của các yếu tốnày khiến xuất khẩu gạo Thái Lan giảm mạnh và tồn kho tăng cao trong năm 2020. Tồn kho gạo tại Thái Lan dự báo tiếp tục duy trì ở mức cao trong năm 2021. Tình hình này tại Thái Lan, cộng với giá gạo Việt Nam ở mức cao, có thể khiến một số khách hàng quay lưng lại với gạo Việt Nam và chuyển sang nguồn cung gạo dồi dào tại Ấn Độ có giá chào bán thấp hơn, đặc biệt là gạo trắng.
Thứ ba, giá gạo Việt Nam tăng do cải tiện về chất lượng gạo hoặc các nhà xuất khẩu gạo Việt Nam chú ý hơn tới cải thiện chất lượng gạo và khả năng truy xuất nguồn gốc để đáp ứng tốt hơn các tiêu chuẩn khắt khe tại các thị trường xuất khẩu như EU, Mỹ và Hàn Quốc là sự thật và đáng hoan nghênh về lượng nhưng còn đáng cân nhắc về chất. Thống kê của Bộ Nông nghiệp Mỹ cho thấy 5 năm trước, các thị trường khó tính tại châu Âu, mỹ và Úc chiếm 11,3% trong tỷ trọng xuất khẩu gạo trắng (50,8% tổng kim ngạch xuất khẩu gạo) và chỉ 2% trong tỷ trọng 44,6% xuất khẩu gạo thơm và gạo nếp trong tổng kim ngạch xuất khẩu gạo. Tuy nhiên, trong năm 2020, tỷ trọng xuất khẩu gạo trắng sang các thị trường này tụt xuống còn 6,9% trong khi tỷ trọng trong xuất khẩu gạo thơm và gạo nếp chỉ tăng nhẹ lên 2,7%.
Tuy nhiên, nhận định này không có nghĩa là hạ thấp các nỗ lực của ngành gạo, mà ngược lại, cần công nhận các doanh nghiệp đã liên tục duy trì nỗ lực phát triển các vùng nguyên liệu và các chuỗi giá trị gạo bền vững để xây dựng thương hiệu cho mặt hàng gạo. Dù vậy, với diện tích trồng lúa rất lớn còn lại, sẽ là quá lạc quan để nói rằng sự chú ý ngày càng tăng tới chất lượng gạo nhưng chưa đủ mạnh để cho rằng đó là nguyên nhân đẩy giá gạo tăng.
Theo Saigon Times
Bình luận