0

Việt Nam chuẩn bị sửa đổi Luật thuế giá trị gia tăng hiện hành với việc phân loại lại các sản phẩm trong các lĩnh vực như nông nghiệp và thủy sản, với hy vọng giúp chúng hoạt động thuận lợi hơn. Dự thảo Luật thuế GTGT sửa đổi sẽ được trình Quốc hội (Quốc hội) lấy ý kiến tại kỳ họp thứ 7 diễn ra vào tháng 5 và tháng 6, trước khi có thể thông qua tại kỳ làm việc thứ 8 dự kiến diễn ra vào tháng 10.

Tháng 12/2023, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã thông qua nghị quyết về điều chỉnh chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2024, trong đó có luật VAT. Một trong những điểm nổi bật của dự thảo sửa đổi là đề xuất mức thuế VAT mới. Cụ thể, sẽ giới hạn danh mục “dịch vụ xuất khẩu được hưởng thuế GTGT 0%” để bao gồm cụ thể 3 nhóm dịch vụ cung cấp cho tổ chức, cá nhân nước ngoài: cho thuê phương tiện sử dụng ngoài lãnh thổ Việt Nam; vận tải quốc tế; và các dịch vụ hàng không, hàng hải được cung cấp trực tiếp cho mục đích vận tải quốc tế. Bên cạnh đó, dự thảo sẽ phân loại lại các sản phẩm phân bón, tàu cá, máy móc, thiết bị chuyên dụng dùng cho sản xuất nông nghiệp thuộc đối tượng chịu thuế VAT 5% thay vì không chịu thuế VAT như hiện nay.

Nhiều rào cản

Theo Bộ Tài chính (MoF), cơ quan soạn thảo sửa đổi, kể từ khi thay đổi vào năm 2016, việc thực hiện luật sửa đổi đã bộc lộ nhiều bất cập ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp.

Chẳng hạn, tất cả các doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh hàng hóa dùng cho sản xuất nông nghiệp, thủy sản như phân bón, máy móc chuyên dụng, tàu cá đều được miễn thuế GTGT. “Tuy nhiên, họ không được phép kê khai, khấu trừ đối với hàng hóa, dịch vụ đầu vào, bao gồm cả các hoạt động liên quan đến đầu tư và mua tài sản cố định để phục vụ hoạt động của mình”, báo cáo của Bộ Tài chính về dự thảo sửa đổi trình Chính phủ tuần trước nêu rõ. “Thay vào đó, việc thanh toán VAT được thực hiện vào giá thành sản phẩm, dẫn đến giá bán tăng và giảm lợi nhuận, nghĩa là mặt hàng này kém cạnh tranh hơn so với mặt hàng tương tự nhập khẩu”. “Do không được khấu trừ hàng hóa, dịch vụ đầu vào nên doanh nghiệp không muốn mở rộng đầu tư, mua hàng, sửa chữa, phân loại tài sản cố định để tạo ra sản phẩm chất lượng cao”, Bộ Tài chính nêu rõ.

Phó giáo sư Nguyễn Thị Thùy Dương, Viện Tài chính Ngân hàng, Đại học Kinh tế Quốc dân, nhận xét, trong ngành sản xuất phân bón, Việt Nam hiện phải nhập khẩu khối lượng lớn phân bón từ thị trường nước ngoài nên mặt hàng này phải chịu thuế VAT các loại. cấp độ. “Khi xuất khẩu sản phẩm phân bón vào Việt Nam, các doanh nghiệp xuất khẩu này được hoàn thuế GTGT đầu vào. Trong khi đó, khi nhập khẩu vào Việt Nam thì được miễn thuế nên doanh nghiệp nước ngoài có thể hạ giá bán, tạo ra sự cạnh tranh không lành mạnh với các mặt hàng sản xuất tại Việt Nam”, bà Dương phân tích.

Hơn nữa, nhà nước đã mất một khoản thu do không thu được VAT từ các sản phẩm nhập khẩu, trong khi thuế nhập khẩu rất thấp hoặc giảm xuống bằng 0, bà Dương nói. “Điều này có nghĩa là các nhà sản xuất địa phương sẽ tiếp tục gặp khó khăn. Thực tế, khi sản phẩm phân bón không phải chịu thuế VAT thì doanh nghiệp không được khấu trừ thuế VAT đầu vào khi bán trong nước, trong khi phần lớn nguyên liệu đầu vào đều phải chịu thuế VAT 10%”, bà nói tiếp. Bà giải thích, hệ quả là doanh nghiệp phải tăng chi phí sản xuất, giảm lợi nhuận và không muốn đầu tư đổi mới tài sản cố định. “Ngoài ra, doanh nghiệp cũng chuyển sang xuất khẩu sản phẩm vì xuất khẩu có thể giúp họ được hoàn thuế VAT nhờ thuế suất 0. Điều này sẽ dẫn tới nguồn cung phân bón giảm, đồng nghĩa với việc giá phân bón trên thị trường trong nước tăng”. Theo dự thảo luật sửa đổi, đối với máy móc, thiết bị nông nghiệp, thức ăn chăn nuôi, tàu cá, hiện nay các mặt hàng này không thuộc đối tượng chịu thuế GTGT.

Tuy nhiên, điều này đã gây khó khăn cho các nhà sản xuất trong các lĩnh vực này. Họ không được kê khai, khấu trừ thuế GTGT của hàng hóa, dịch vụ đầu vào, bao gồm tất cả các hoạt động đầu tư, mua sắm tài sản cố định phục vụ sản xuất, kinh doanh. Và thay vào đó họ phải tăng chi phí và giá bán, đồng nghĩa với việc giảm lợi nhuận. Cuối cùng, khách hàng sẽ phải mua sản phẩm với giá cao. Trong khi đó, theo Bộ Tài chính, nhiều loại máy móc, thiết bị được sử dụng cho nhiều mục đích ngoài sản xuất nông nghiệp như máy bơm nước, máy làm ấm, động cơ diesel. “Điều này có nghĩa là rất khó để xác định loại máy nào chịu thuế suất thuế GTGT 5 hay 10% khi họ kê khai đúng số thuế phải nộp. Hơn nữa, cơ quan thuế, hải quan cũng không kiểm soát được mục đích sử dụng của máy móc, thiết bị để đưa ra mức giá phù hợp”, Bộ Tài chính nêu rõ. Dịch vụ bưu chính, viễn thông công cộng, internet và các dịch vụ chăm sóc vườn thú, công viên, chiếu sáng công cộng hiện không thuộc đối tượng chịu thuế GTGT. Theo Bộ Tài chính, nhiều doanh nghiệp đã và đang cung cấp dịch vụ này nhưng việc doanh nghiệp không thuộc đối tượng chịu thuế GTGT “không phù hợp nữa vì không được khấu trừ thuế GTGT đầu vào và được hoàn thuế đầu vào”.

Lối ra

Theo dự thảo sửa đổi luật, cơ quan lập pháp sẽ sửa đổi danh mục hàng hóa, dịch vụ chịu thuế GTGT theo hướng giảm số lượng hàng hóa, dịch vụ đó.

Chẳng hạn, Bộ Tài chính đã được Bộ Công Thương, Hiệp hội Phân bón Việt Nam và các nhà sản xuất phân bón trong nước đề nghị chuyển sản phẩm phân bón từ không chịu thuế VAT sang 5%. “Phân bón phải chịu mức thuế VAT 5% để hỗ trợ ngành. Tuy nhiên, cần hài hòa tỷ lệ này với các loại thuế khác đánh vào phân bón như thuế xuất nhập khẩu”, ông Dương, Viện Tài chính Ngân hàng cho biết. “Chính phủ cũng cần kiểm soát hoạt động xuất khẩu phân bón để tránh tác động xấu đến nguồn cung trong nước. Thuế xuất khẩu phân bón cần được duy trì ở mức cao hơn 0%.”

Bộ Tài chính cũng kiến nghị, để giúp các doanh nghiệp sản xuất máy móc, thiết bị nông nghiệp, tàu cá thoát khỏi khó khăn, giúp các doanh nghiệp này cạnh tranh bình đẳng với các mặt hàng tương tự nhập khẩu, “Quốc hội cần sửa đổi các quy định liên quan đối với các sản phẩm sản xuất trong nước này. thích hợp."

Đánh giá mức thuế suất VAT 10% hiện hành

Khoản 2 Điều 3 Luật thuế giá trị gia tăng hiện hành quy định mức thuế suất ưu đãi là 5% và mức thuế suất phổ biến là 10%. Việt Nam đang đẩy mạnh tái cơ cấu nền kinh tế với nhiệm vụ trọng tâm là thúc đẩy tái cơ cấu thu chi ngân sách, bảo đảm an toàn nợ công và tài chính quốc gia. Nguồn thu từ xuất nhập khẩu của Việt Nam giảm do thực hiện cam kết cắt giảm thuế quan mà Việt Nam đã ký kết tại các hiệp định thương mại tự do, cùng với đó là nguồn thu từ xuất khẩu dầu thô giảm và thuế thu nhập doanh nghiệp (TNDN) giảm từ 32% xuống 20% mỗi năm, nhằm mục đích nâng cao khả năng cạnh tranh của nền kinh tế. Điều này đã tác động không nhỏ đến cơ cấu thu ngân sách nhà nước.

Cụ thể, tỷ trọng thu từ dầu thô và thu từ hoạt động xuất nhập khẩu bình quân từ khoảng 39,1% tổng thu ngân sách nhà nước (tương đương 10,3% GDP) giai đoạn 2006-2010 xuống còn khoảng 30,8% tổng thu ngân sách nhà nước bình quân giai đoạn 2011-2015 và đạt khoảng 14,5% tổng thu ngân sách nhà nước bình quân giai đoạn 2016-2020. Thực tiễn quốc tế cho thấy, nhiều quốc gia trên thế giới hiện đang có xu hướng cơ cấu lại nguồn thu ngân sách nhà nước, trong đó tăng cường vai trò của thuế VAT, giảm dần thuế nhập khẩu nhằm thực hiện các cam kết với cộng đồng quốc tế, đồng thời cũng giảm dần thuế TNDN để nhằm tăng tính hấp dẫn của môi trường đầu tư. Số lượng các quốc gia áp dụng thuế VAT hoặc thuế hàng hóa và dịch vụ (GST) đang gia tăng, từ khoảng 140 quốc gia năm 2004 lên 195 quốc gia vào năm 2020.

Theo số liệu thống kê của Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) về thuế suất của 164 quốc gia và vùng lãnh thổ năm 2020, có 122 quốc gia có mức thuế phổ biến từ 13 đến 27%; 26 nước có mức thuế chung từ 10% đến dưới 13%; và 16 nước áp dụng mức thuế suất chung dưới 10%. Các nước láng giềng của Việt Nam như Lào, Indonesia, Campuchia cũng có mức thuế chung là 10%, Trung Quốc là 13%, Philippines là 12%. Ở một số quốc gia khác, chẳng hạn như Canada, ngoài chính phủ liên bang thu GST, chính quyền một số bang cũng thu loại thuế này. Để thực hiện các chủ trương, chính sách của Đảng, phù hợp với thực tiễn và xu hướng cải cách thuế GTGT của quốc tế, cần nghiên cứu áp dụng một mức thuế suất chung phù hợp. Nguồn: Báo cáo của Chính phủ gửi Ủy ban Thường vụ Quốc hội.

Việt Nam nhập khẩu gần 352 triệu USD các mặt hàng phân bón trong quý 1/2024

Theo số liệu thống kê sơ bộ của Tổng cục Hải quan, lượng phân bón nhập khẩu tăng vọt trong tháng 3, trong đó Trung Quốc là nhà cung cấp lớn nhất. Tháng 3/2024, Việt Nam nhập khẩu khoảng 429.000 tấn phân bón trị giá 123 triệu USD, tăng 52,3% về số lượng và 35% về giá trị so với tháng trước. Giá nhập khẩu trung bình là 287 USD/tấn, giảm 11,6% so với tháng 2.

Trung Quốc là nhà cung cấp hàng đầu với tổng lượng gần 175.000 tấn, tăng trưởng đáng kể với gần 44% về lượng, trên 55% về giá trị và gần 8% về giá trong cùng kỳ so sánh. Trong 3 tháng đầu năm 2024, cả nước nhập khẩu hơn 1,12 triệu tấn phân bón, trị giá gần 352 triệu USD, giá bình quân trên 314 USD/tấn. Trung Quốc vẫn là nhà cung cấp chính, chiếm khoảng 42% tổng lượng và trên 29% tổng giá trị nhập khẩu. Việt Nam cũng nhập khẩu phân bón từ các thị trường khác, bao gồm Nga, Đông Nam Á, các thành viên Hiệp định Đối tác Kinh tế Toàn diện Khu vực (RCEP) và Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP).

Tiến sĩ Phùng Hà, Phó Chủ tịch kiêm Tổng thư ký Hiệp hội Phân bón Việt Nam (FAV), cho biết, phân bón Trung Quốc luôn được nhập khẩu nhiều nhất vào Việt Nam. Điều này là do vai trò quan trọng của Trung Quốc là nhà sản xuất và xuất khẩu phân bón lớn trên toàn thế giới. Hà nói với plo.vn rằng hiện tại, Việt Nam đang phải đối mặt với tình trạng thiếu hoặc không có khả năng sản xuất trong nước một số loại phân bón. Chẳng hạn, đối với DAP, năng lực sản xuất trong nước chỉ khoảng 400.000 - 500.000 tấn, trong khi nhu cầu vượt quá 1 triệu tấn, buộc phải nhập khẩu. Về phân bón NPK, Việt Nam nhập khẩu phân bón có hàm lượng dinh dưỡng cao, đồng thời xuất khẩu phân bón có hàm lượng dinh dưỡng thấp hơn sang các thị trường lân cận, ông Hà cho biết thêm. Theo Phó Chủ tịch FAV, nguồn cung phân bón trong nước không chỉ phụ thuộc vào thị trường nước ngoài. Một số loại phân bón như urê và supe lân được sản xuất để sử dụng trong nước và xuất khẩu. Tỷ trọng xuất khẩu phân bón của Việt Nam ngày càng tăng, đạt 1,7 tỷ USD vào năm 2022 do một số quốc gia hạn chế xuất khẩu phân bón.

Theo VIR, VNS

Admin

Thuế VAT 5% đối với phân bón để tạo thị trường công bằng hơn

Bài trước

Nhập khẩu phân bón giảm trong năm 2023

Bài sau

Bài viết tương tự

Bình luận

Trả lời bình luận

Địa chỉ email của bạn sẽ được bảo mật. Các trường * là bắt buộc

Xem thêm Chính sách