Sản lượng cà phê Việt Nam năm tiếp thị 2025/26 dự kiến sẽ tăng lên 31 triệu bao tương đương hạt cà phê xanh. Giá cao đã khiến nông dân tăng đầu tư vào quản lý cây trồng và đầu vào. Xuất khẩu năm 2025/26 dự kiến sẽ tăng, với dự báo tăng trưởng mạnh đối với xuất khẩu cà phê rang và cà phê hòa tan sang các thị trường châu Á đang phát triển.
Giá cà phê toàn cầu vẫn ở mức cao, thúc đẩy nông dân giữ lại hàng tồn kho do dự báo giá cà phê sẽ tiếp tục tăng. Do đó, các thương nhân và nhà xuất khẩu gặp khó khăn trong việc mua khối lượng lớn, dẫn đến việc giảm lượng hàng tồn kho do nhà xuất khẩu nắm giữ và giảm khối lượng xuất khẩu trong nửa đầu năm tiếp thị (MY) 2024/25. Các công ty và thương nhân cà phê đang đầu tư vào việc mở rộng và hiện đại hóa các cơ sở sản xuất và chế biến để tăng giá trị gia tăng và cải thiện khả năng cạnh tranh lâu dài.
Sản xuất
USDA Post dự báo tổng sản lượng cà phê của Việt Nam niên vụ 2025/26 đạt 31 triệu bao cà phê nhân xô (GBE) khi nông dân tăng sản lượng khi giá cà phê tăng. Sản lượng cà phê Robusta dự báo đạt 30 triệu bao GBE và sản lượng Arabica đạt một triệu bao. USDA Post duy trì ước tính sản lượng cà phê niên vụ 2024/25 ở mức 29 triệu bao GBE, bao gồm 28 triệu bao Robusta. Giá cà phê cao hơn và điều kiện thời tiết thuận lợi đã hỗ trợ sản lượng cao hơn và thúc đẩy năng suất.
Bảng 1. Sản lượng cà phê Robusta nhân xô niên vụ 2023/24-2025/26
MY2023/24 |
MY2024/25 |
MY2025/26 |
|
Ước tính |
Ước tính |
Dự báo |
|
Năm thương mại bắt đầu |
T10/2023 |
T10/2024 |
T10/2025 |
Diện tích thu hoạch (ha) |
611,500 |
615,000 |
620,000 |
Sản lượng (ngàn bao) |
28,500 |
28,000 |
30,000 |
Năng suất trung bình (tấn/ha) |
2.75 |
2.73 |
2.90 |
Nguồn: Ước tính và dự báo của Post
Theo Tổng cục Thống kê Việt Nam (GSO), diện tích trồng cà phê đã tăng liên tục tại Việt Nam kể từ năm 2013. Tổng diện tích cà phê năm 2024 ước tính đạt 730.000 ha với 92% diện tích này đã được thu hoạch. Cây cà phê ở diện tích canh tác còn lại chưa đủ trưởng thành để thu hoạch.
Khu vực Tây Nguyên, bao gồm các tỉnh Đắk Lắk, Lâm Đồng, Đắk Nông, Gia Lai và Kon Tum, chiếm 92% tổng diện tích trồng cà phê và 90% sản lượng cà phê cả nước. Độ cao thuận lợi, đất núi lửa và mùa mưa và mùa khô rõ rệt của khu vực tạo ra điều kiện lý tưởng để trồng cà phê Robusta chất lượng cao. Một số cơ quan truyền thông đưa tin về sự chuyển dịch từ cà phê sang các loại cây trồng có giá trị cao khác, chẳng hạn như sầu riêng. Tuy nhiên, diện tích trồng cà phê vẫn tiếp tục mở rộng theo số liệu chính thức. Viện Khoa học Nông Lâm nghiệp Tây Nguyên (WASI), cơ sở nghiên cứu cà phê hàng đầu của Việt Nam, thông báo với Post rằng nhu cầu về cây giống cà phê vẫn ở mức cao, với việc viện cung cấp khoảng 4 đến 5 triệu cây cà phê mỗi năm để trồng mới và tái canh. Theo WASI, các chương trình tái canh rất quan trọng để tăng năng suất, cải thiện chất lượng, tăng cường khả năng phục hồi trước biến đổi khí hậu và đáp ứng các yêu cầu và tiêu chuẩn chất lượng ngày càng khắt khe tại các thị trường xuất khẩu lớn như Liên minh Châu Âu, Nhật Bản và Mỹ.
Hình 1. Diện tích trồng cà phê tại Việt Nam
Nguồn: Thống kê của Tổng cục Thống kê
Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (MARD), nay là Bộ Nông nghiệp và Môi trường (MAE), đã lập kế hoạch chương trình cà phê đặc sản vào năm 2021. Kế hoạch này kêu gọi tăng sản lượng cà phê đặc sản lên 19.000 ha (3% tổng diện tích cà phê) vào năm 2030, với sản lượng dự kiến là 11.000 tấn. Hiệp hội Cà phê và Ca cao Việt Nam (VICOFA) đang triển khai các chương trình khuyến mãi cà phê đặc sản theo kế hoạch này, bao gồm các cuộc thi cà phê đặc sản để giới thiệu cà phê đặc sản của Việt Nam đến với người mua quốc tế.
Quy định về phá rừng của EU (EUDR), có hiệu lực vào năm 2026, đang tạo ra những thách thức cho các nhà sản xuất cà phê Việt Nam. 41% lượng cà phê xuất khẩu của Việt Nam là sang Liên minh châu Âu. Hai công ty đã triển khai các hệ thống để đáp ứng các yêu cầu của EUDR và những công ty khác đang thực hiện các biện pháp tuân thủ. Công ty Simexco Daklak đã triển khai hệ thống truy xuất nguồn gốc và Công ty EDE đã xuất khẩu thành công sang Liên minh châu Âu theo các yêu cầu mới của EUDR. Bộ NN & PTNT đang thiết lập các hệ thống giám sát khu vực để hỗ trợ tuân thủ EUDR. Các hệ thống này đã thu thập dữ liệu từ 136.000 ha đất trồng cà phê. Các hệ thống này giám sát các khu vực có nguy cơ cao như các trang trại cà phê trong rừng, tạo cơ sở dữ liệu quốc gia về sản xuất và tài nguyên cà phê, chuẩn hóa dữ liệu để tạo điều kiện truy xuất nguồn gốc và tuân thủ, đồng thời hỗ trợ các chương trình chứng nhận như 4C, Rainforest Alliance và Fair Trade.
Theo Trung tâm Dự báo Khí tượng Thủy văn Quốc gia, thời tiết năm 2025 dự kiến sẽ thuận lợi cho sản xuất cà phê. Mặc dù vẫn còn lo ngại về hạn hán vào tháng 4-tháng 5 năm 2025 và khả năng lượng mưa thấp hơn vào tháng 3-tháng 4, lượng mưa đầu tháng 2 và điều kiện El Niño-Dao động Nam Trung Bộ (ENSO) trung tính cho thấy điều kiện chung tốt hơn cho việc trồng cà phê so với những thách thức phải đối mặt vào năm 2024. Dữ liệu từ Hệ thống đánh giá thảm họa và nông nghiệp toàn cầu (GADAS) của USDA chỉ ra rằng lượng mưa hàng tháng trong 4 tháng đầu năm 2025 cao hơn so với cùng kỳ năm 2024 tại các tỉnh trồng cà phê chính, bao gồm Đắk Lắk, Gia Lai, Kon Tum, Đắk Nông và Lâm Đồng (Hình 2). Tuy nhiên, lượng mưa lớn vào tháng 12/2024 có thể đã làm gián đoạn việc thu hoạch cà phê cho MY 2024/25.
Hình 2. Lượng mưa hàng tháng tại các tỉnh trồng cà phê chính của Việt Nam
Nguồn: Hệ thống đánh giá thảm họa và nông nghiệp toàn cầu của USDA
Tiêu thụ cà phê
USDA Post đăng dự báo lượng tiêu thụ cà phê sẽ tăng lên 4,9 triệu bao trong MY 2025/26 và ước tính lượng tiêu thụ cà phê MY 2024/25 sẽ tăng lên 4 triệu bao do nhu cầu mạnh. Nhu cầu cà phê trong nước của Việt Nam đang tăng trưởng mạnh, được thúc đẩy bởi tầng lớp trung lưu đang mở rộng và sự phát triển kinh tế bền vững. Sự phục hồi của cả du lịch quốc tế và trong nước vào năm 2024 và quý đầu tiên của năm 2025 đã thúc đẩy thêm lượng tiêu thụ cà phê. Có sự tăng trưởng nhanh chóng của các chuỗi cửa hàng cà phê và sự quan tâm ngày càng tăng đối với cà phê đặc sản tại Việt Nam. Cả các thương hiệu trong nước và quốc tế đều đang đầu tư vào việc mở rộng hoạt động và cải thiện các sản phẩm cung cấp. Việt Nam hiện có hơn 500.000 quán cà phê, từ các quán cà phê nhỏ trong khu phố đến các chuỗi cao cấp hiện đại, phản ánh sự mở rộng năng động của ngành bán lẻ cà phê. Xu hướng này làm nổi bật nhu cầu ngày càng tăng của người tiêu dùng đối với các hương vị độc đáo và các loại cà phê pha chế chất lượng cao. Ngoài ra, cà phê mang đi và pha chế tại nhà đang trở nên phổ biến hơn, đặc biệt là đối với những người tiêu dùng trẻ tuổi tìm kiếm sự tiện lợi và cá nhân hóa.
Biểu đồ 3. Số lượng cửa hàng cà phê chuỗi năm 2023
Nguồn: Mibrand Việt Nam, ngày 30/7/2024
Các đối tác thương mại báo cáo doanh số bán sản phẩm chế biến tăng nhanh, bao gồm cà phê hòa tan, cà phê rang xay và các sản phẩm có chứa caffeine cho cả thị trường trong nước và nước ngoài. Theo báo cáo của phương tiện truyền thông, Nestlé đang đầu tư gần 75 triệu USD để mở rộng nhà máy tại tỉnh Đồng Nai, sản xuất các thương hiệu như Nescafé, Nespresso và Starbucks, và xuất khẩu sang hơn 35 quốc gia, đưa tổng vốn đầu tư của Nestlé vào Việt Nam lên gần 1 tỷ USD trong 30 năm hoạt động. Trung Nguyên, một công ty cà phê lớn của Việt Nam, đã công bố vào tháng 3/2025 rằng họ sẽ đầu tư 75 triệu USD vào một nhà máy cà phê mới tại tỉnh Đắk Lắk. Đây sẽ là cơ sở chế biến cà phê thứ năm của Tập đoàn Trung Nguyên. Highlands Coffee cũng đã mở một cơ sở mới trị giá 20 triệu USD tại tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu, với công suất chế biến mục tiêu là 75.000 tấn mỗi năm.
Thương mại
Xuất khẩu
Dự báo xuất khẩu MY 2024/25 giảm xuống còn 25,8 triệu bao GBE dựa trên dữ liệu thương mại gần đây. Mặc dù nhu cầu toàn cầu mạnh mẽ, các nhà xuất khẩu cà phê vẫn còn do dự trong việc ký kết hợp đồng kỳ hạn do những thách thức trong việc điều hòa giá trong nước biến động với kỳ vọng của thị trường quốc tế. Đồng thời, có sự thay đổi rõ ràng trong chiến lược kinh doanh theo hướng đầu tư vào các sản phẩm cà phê chế biến thay vì xuất khẩu hạt cà phê xanh truyền thống. Nhiều nông dân tiếp tục giữ lại hàng tồn kho do dự đoán giá sẽ tăng thêm, tạo ra tình trạng thiếu hụt nguồn cung và sự không chắc chắn cho các nhà xuất khẩu. Tuy nhiên, khối lượng xuất khẩu cà phê dự kiến sẽ tăng trong những tháng tiếp theo khi nông dân phải đối mặt với áp lực giải phóng hàng tồn kho để dọn chỗ cho vụ thu hoạch MY 2025/26.
Biểu đồ 4. Khối lượng xuất khẩu cà phê hàng tháng
Nguồn: Hải quan Việt Nam, thống kê của Tổng cục Thống kê. *Dự báo từ tháng 5 đến tháng 9 năm 2025.
Việt Nam đã xuất khẩu khoảng 12,15 triệu bao cà phê GBE trong nửa đầu năm tài chính 2024/2025 theo số liệu sơ bộ từ Tổng cục Hải quan và Tổng cục Thống kê, giảm 23 phần trăm so với cùng kỳ năm tài chính 2023/2024. Sự sụt giảm trong xuất khẩu cà phê đã rõ ràng trên một số thị trường lớn, bao gồm Nhật Bản (giảm 28%), Ý (giảm 27%), Hoa Kỳ (giảm 22%), Tây Ban Nha (giảm 19%) và Đức (giảm 9%). Giá trong nước cao kết hợp với việc nông dân giữ lại lượng cà phê dự trữ đã hạn chế khả năng cung cấp cà phê cho các hợp đồng kỳ hạn.
Trong khi các thị trường lớn truyền thống như EU, Nhật Bản và Mỹ vẫn là những nước nhập khẩu chính cà phê Việt Nam, thì các thị trường châu Á như Trung Quốc, Hàn Quốc, Thái Lan, Philippines và Indonesia ngày càng trở nên quan trọng đối với các nhà xuất khẩu cà phê Việt Nam. Các thị trường châu Á đã nhập khẩu khoảng 1,85 triệu bao GBE từ Việt Nam trong nửa đầu năm tài chính 2024/25. Mặc dù giảm nhẹ so với năm tài chính 2023/2024, nhưng các thị trường châu Á chiếm tỷ trọng ngày càng tăng trong xuất khẩu cà phê của Việt Nam.
Biểu đồ 5. Xuất khẩu cà phê tới các điểm đến chính, nửa đầu năm tiếp thị
Nguồn: Dữ liệu của Tổng cục Hải quan Việt Nam từ tháng 10 đến tháng 3.
Xuất khẩu cà phê nhân xô
Biểu đồ 6. Xuất khẩu cà phê nhân xô hàng tháng
Nguồn: Tổng cục Hải quan Việt Nam, các mối liên hệ thương mại. * Dự báo từ tháng 5 đến tháng 9 năm tài chính 2024/25.
Xuất khẩu cà phê nhân xanh của Việt Nam đạt 10,02 triệu bao trong nửa đầu năm tài chính 2024/25, giảm 27% so với cùng kỳ năm trước (Biểu đồ 6). Xuất khẩu đậu xanh MY2024/25 được dự báo là 23 triệu bao dựa trên xu hướng xuất khẩu. Dự báo của Post về xuất khẩu đậu xanh sẽ tăng lên 23,7 triệu bao trong MY 2025/26 dựa trên giá xuất khẩu cao và nguồn cung và nhu cầu toàn cầu mạnh mẽ.
Xuất khẩu cà phê rang xay và hòa tan
Xuất khẩu cà phê rang xay và hòa tan dự kiến đạt 3,3 triệu bao GBE trong niên vụ 2025/26 dựa trên việc mở rộng các cơ sở chế biến cà phê và nhu cầu mạnh mẽ ở các thị trường châu Á. USDA Post ước tính xuất khẩu cà phê hòa tan và rang trong niên vụ 2024/25 đạt 2,8 triệu bao GBE. Xuất khẩu cà phê của Việt Nam đang dần chuyển sang các sản phẩm có giá trị gia tăng cao hơn, được hỗ trợ bởi năng lực chế biến trong nước tăng lên. Năm 2024, cà phê xanh vẫn chiếm khoảng 90% kim ngạch xuất khẩu, giảm nhẹ so với mức 91,2% năm 2022. Cà phê chế biến đã tăng từ 8,8% kim ngạch xuất khẩu lên 9,6%, phản ánh nhu cầu ngày càng tăng ở châu Á và các thị trường khác. Theo VICOFA, giá xuất khẩu cà phê trung bình của Việt Nam trong niên vụ 2023–2024 là 3.792 USD/tấn. Trong số 10 thị trường xuất khẩu hàng đầu, năm quốc gia châu Âu, bao gồm Đức, Ý, Tây Ban Nha, Nga và Hà Lan, có giá trị đơn vị nhập khẩu trung bình dưới 4.000 USD/tấn. Đức, thị trường xuất khẩu cà phê lớn nhất của Việt Nam tại EU, đã trả khoảng 3.390 USD/tấn, trong khi Ý có giá đơn vị thấp nhất là 3.260 USD/tấn. Ngược lại, các thị trường châu Á đang nổi lên như những người mua cao cấp. Philippines đã trả giá cao nhất ở mức 4.424 USD/tấn, tiếp theo là Trung Quốc (4.166 USD/tấn) và Indonesia (4.197 USD/tấn). Những xu hướng này làm nổi bật vai trò ngày càng tăng của châu Á trong việc thúc đẩy xuất khẩu có giá trị cao hơn và giảm sự phụ thuộc của Việt Nam vào các lô hàng hàng hóa thô.
Nhập khẩu
Nhập khẩu MY 2025/26 dự kiến sẽ giảm xuống còn 800.000 nghìn bao GBE. Ước tính nhập khẩu cà phê MY 2024/25 sẽ giảm xuống còn 850.000 bao. Sản lượng và nguồn cung trong nước cao hơn đã làm giảm nhu cầu nhập khẩu. Việc mở rộng các cơ sở chế biến và nhu cầu đối với hạt cà phê Arabica, vốn có sản lượng hạn chế tại Việt Nam, sẽ tiếp tục duy trì mức nhập khẩu tối thiểu trong tương lai.
Giá cà phê
Giá xuất khẩu trung bình đạt 5.630 USD/tấn trong nửa đầu năm tài chính 2024/25, tăng 143% so với năm tài chính 2023/24 (Biểu đồ 7). Nhu cầu cà phê ngày càng tăng đối với các chất phụ gia caffeine, hương liệu và nước hoa, chăm sóc da và dược phẩm đã góp phần làm tăng nhu cầu đối với cà phê robusta, đẩy giá cà phê lên cao. Giá xuất khẩu cao đã mang lại lợi ích cho người nông dân trồng cà phê Việt Nam. Giá cà phê trong nước vào khoảng 125.000 đồng/kg trong nửa đầu năm tài chính 2024/25, cao hơn 130% so với năm trước. Theo các mối liên hệ với thương nhân, người nông dân vẫn giữ một lượng lớn cà phê trong nước và đang bán dần, kỳ vọng giá sẽ cao hơn. Giá cà phê toàn cầu cũng chịu ảnh hưởng của các thị trường trao đổi hàng hóa như Sở giao dịch hàng hóa London và Sở giao dịch hàng hóa Chicago.
Biểu đồ 7. Giá cà phê Robusta nhân xô xuất khẩu
Nguồn: Hải quan Việt Nam, Liên hệ thương mại
Biểu đồ 8. Giá cà phê Robusta nhân xô trong nước
Nguồn: Liên hệ thương mại, VnSAT
Tồn kho
USDA Post dự báo lượng tồn kho cuối năm 2025/26 của GBE là 839.000 bao dựa trên cung và cầu cao. Post ước tính lượng tồn kho cuối năm 2024/25 của MY là 939.000 bao. Trước đây, khi giá dao động quanh mức 40.000–50.000 VND/kg, các thương nhân và nhà xuất khẩu có thể đủ khả năng mua và lưu trữ khối lượng lớn. Tuy nhiên, với mức giá hiện tại vượt quá 100.000 VND/kg và tiếp tục biến động, hoạt động mua sắm đã trở nên thâm dụng vốn. Do đó, nhiều doanh nghiệp đã chuyển sang mô hình mua để bán đúng lúc để duy trì thanh khoản, dẫn đến việc giảm đáng kể lượng hàng tồn kho do nhà xuất khẩu nắm giữ. Như đã lưu ý trong các phần trước, nông dân tiếp tục giữ lại doanh số bán hàng để chờ giá cao hơn. Hầu hết hàng tồn kho thực tế hiện do nông dân nắm giữ, những người thường chỉ lưu trữ số lượng nhỏ. Sự thay đổi trong hành vi này đã khiến lượng hàng tồn kho bị phân mảnh hơn và khó ước tính hơn. Những trang trại này sẽ phải dần dần giải phóng lượng hàng dự trữ cho đến hết năm tài chính 2024/25 khi nông dân chuẩn bị cho vụ thu hoạch sắp tới.
Cà phê nhân xô |
2023/2024 |
2024/2025 |
2025/2026 |
Market Year Begins |
T10/2023 |
T10/2024 |
T10/2025 |
Việt Nam |
USDA |
USDA Post |
USDA |
Tồn kho đầu kỳ (1000 bao loại 60kg) |
839 |
839 |
839 |
Sản lượng cà phê Arabica (1000 bao loại 60kg) |
1000 |
1000 |
1100 |
Sản lượng cà phê Robusta (1000 bao loại 60kg) |
26500 |
26550 |
29000 |
Sản xuất khác (1000 bao loại 60kg) |
0 |
0 |
0 |
Tổng sản lượng (1000 bao loại 60kg) |
27500 |
27550 |
30100 |
Nhập khẩu cà phê (1000 bao loại 60kg) |
400 |
400 |
500 |
Nhập khẩu cà phê rang xay (1000 bao loại 60kg) |
200 |
200 |
200 |
Nhập khẩu cà phê hòa tan (1000 bao loại 60kg) |
200 |
200 |
200 |
Tổng nhập khẩu (1000 bao loại 60kg) |
800 |
800 |
900 |
Tổng nguồn cung (1000 bao loại 60kg) |
29139 |
29189 |
31839 |
Xuất khẩu cà phê nhân xô (1000 bao loại 60kg) |
22600 |
22000 |
24400 |
Xuất khẩu cà phê rang xay (1000 bao loại 60kg) |
400 |
400 |
400 |
Xuất khẩu cà phê hòa tan (1000 bao loại 60kg) |
2000 |
2000 |
2500 |
Tổng xuất khẩu (1000 bao loại 60kg) |
25000 |
24400 |
27300 |
Tiêu dùng nội địa cà phê rang xay (1000 bao 60kg) |
2700 |
3000 |
2800 |
Tiêu dùng cà phê hòa tan nội địa (1000 bao 60kg) |
600 |
900 |
800 |
Tiêu dùng nội địa (1000 bao 60kg) |
3300 |
3900 |
3600 |
Tồn kho cuối kỳ (1000 bao 60kg) |
839 |
889 |
939 |
Tổng phân phối (1000 bao 60kg) |
29139 |
29189 |
31839 |
(1000 HA) ,(triệu cây) ,(1000 bao 60kg) |
Theo USDA Post
Bình luận