Tôm Việt Nam - cửa ngõ vào thị trường EU
Trong bối cảnh căng thẳng gia tăng ở Biển Đỏ và cam kết xóa bỏ thuế quan của EU, xuất khẩu tôm của Việt Nam sang châu Âu vẫn có cơ hội đầy hứa hẹn, mặc dù có những điều kiện nghiêm ngặt phía trước.
Theo số liệu của Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu Thủy sản Việt Nam (VASEP), kim ngạch xuất khẩu tôm của nước này trong quý 1/2024 ước tính vượt 620 triệu USD, tăng 24% so với cùng kỳ năm 2023. Các đối thủ cạnh tranh của Việt Nam trên thị trường là Ecuador và Ấn Độ. Dù vậy, Việt Nam vẫn duy trì lợi thế ở phân khúc cao cấp của thị trường. Trong báo cáo hàng quý, VASEP dự đoán triển vọng tích cực cho xuất khẩu tôm năm nay. Nguồn cung tôm toàn cầu tiếp tục tăng trưởng ổn định. Tôm từ Ecuador, đối thủ cạnh tranh hàng đầu của Việt Nam trên thị trường EU, dự kiến giảm nhẹ trong năm 2024 do căng thẳng leo thang ở Biển Đỏ, dẫn đến chi phí vận tải biển tăng đáng kể và bất ổn an ninh. Trong bài phát biểu ngày 4/4, thủ lĩnh Houthi Abdul Malik al-Houthi tuyên bố lực lượng này đã thực hiện 34 cuộc tấn công trong tháng qua và sẽ tiếp tục nhắm vào các tàu ở Biển Đỏ.
Trong khi đó, xuất khẩu tôm của Việt Nam được dự báo sẽ phục hồi và tăng 10-15% trong năm nay. Nhu cầu dự kiến sẽ phục hồi trong sáu tháng cuối năm do áp lực lạm phát giảm bớt và hàng tồn kho của các nhà nhập khẩu giảm. Đây là cơ hội để giá tôm tăng trở lại. Tham tán thương mại Nguyễn Hoàng Thủy của Văn phòng Thương mại Việt Nam tại Thụy Điển cho biết: “So sánh thuế quan cho phép chúng tôi thấy được lợi ích của chúng tôi như thế nào nếu chúng tôi có thể tận dụng Hiệp định Thương mại Tự do Việt Nam-EU khi xuất khẩu tôm sang EU”. “Hiện tại, sản phẩm cá da trơn của chúng tôi được miễn thuế, trong khi Indonesia vẫn phải đối mặt với mức thuế 5,5% và Trung Quốc là 9%. Tương tự, đối với sản phẩm tôm, các nước không có thuế phải đối mặt với mức thuế 12%, trong khi những nước được hưởng ưu đãi sẽ nhận được mức thuế 4,2%. Nhiều sản phẩm tôm của Việt Nam đã được miễn thuế”.
EU xóa bỏ thuế quan ngay khi EVFTA có hiệu lực đối với 50% số dòng thuế, nửa còn lại giảm dần về 0 trong vòng 3-7 năm đối với sản phẩm thủy sản. Tham tán Thủy cho biết, Việt Nam vẫn có tiềm năng đáng kể để xuất khẩu tôm sang EU vì mới chỉ tập trung vào 7 thành viên EU truyền thống, trong khi các nước còn lại vẫn đang mở cửa thăm dò. “Tại Đan Mạch, chúng tôi mới tiếp cận được 45% thị trường tôm, để lại 55% cơ hội xuất khẩu tiềm năng. Tương tự, đối với tôm đông lạnh, chúng ta mới khai thác được một nửa thị trường đầy tiềm năng. Ngoài ra, còn có tiềm năng đáng kể chưa được khai thác ở nhiều sản phẩm thủy sản khác”, tham tán Thủy nói thêm.
Bất chấp triển vọng đầy hứa hẹn, các sản phẩm thủy sản Việt Nam vẫn phải đối mặt với những thách thức do vấn đề thẻ vàng cho hoạt động khai thác thủy sản bất hợp pháp, không được báo cáo và không được quản lý (IUU), cản trở việc truy xuất nguồn gốc thủy sản xuất khẩu và đòi hỏi các doanh nghiệp phải nỗ lực đáng kể để đảm bảo nguồn cung ứng minh bạch, cả trong nước và thông qua nhập khẩu. Hiện tại, EU đã đưa ra các quy định bổ sung như giấy chứng nhận an toàn thực phẩm và giấy chứng nhận tuân thủ xã hội trong đó các siêu thị EU thường yêu cầu nhà cung cấp của họ phải có chứng nhận tuân thủ xã hội của bên thứ ba, chủ yếu liên quan đến cơ sở chế biến. Chương trình chứng nhận tuân thủ xã hội được chấp nhận rộng rãi nhất là tiêu chuẩn SA8000 và Sáng kiến tuân thủ xã hội trong doanh nghiệp. “Có một số khuyến nghị để doanh nghiệp khai thác tối đa tôm Việt Nam tại thị trường EU trong thời gian tới. Thứ nhất, tiếp tục củng cố và xây dựng chuỗi cung ứng thủy sản bền vững, truy xuất nguồn gốc rõ ràng, giảm chi phí sản xuất, nâng cao chất lượng sản phẩm, tận dụng thế mạnh trong chế biến sâu”, ông Lê Đình Huỳnh, Tổng thư ký Liên minh Tôm sạch và bền vững Việt Nam cho biết. “Cùng với đó là thúc đẩy phát triển xanh và kinh tế tuần hoàn; thực hiện trách nhiệm xã hội để đáp ứng các yêu cầu bắt buộc của thị trường EU; thúc đẩy các chứng nhận bền vững quốc tế thích ứng với biến đổi khí hậu được thị trường EU ưa chuộng, chẳng hạn như các sản phẩm hữu cơ; và kết nối sâu hơn trong thị trường, đặc biệt là để doanh nghiệp cập nhật những thay đổi của thị trường EU, các rào cản kỹ thuật và điều kiện ưu đãi thuế quan”, ông Huỳnh nói thêm.
Bà Nguyễn Thị Thu Sắc, Chủ tịch VASEP
Đối với định hướng phát triển chiến lược của ngành thủy sản đến năm 203 trở đi, có một số dự án lớn khiến tôi lo ngại. Cây giống, đất quy hoạch, thức ăn, công nghệ nuôi trồng thủy sản và giá thành sản phẩm có mối liên hệ hệ sinh thái với sản xuất, chế biến và xuất khẩu. Hiện nay, các nhà máy chế biến, sản xuất và xuất khẩu đang nhận được sự hỗ trợ đáng kể từ các cơ quan chính phủ. Tuy nhiên, vẫn còn nhiều vấn đề cần giải quyết và cải tiến về thức ăn, con giống và công nghệ nuôi trồng thủy sản. Đây là yếu tố quan trọng góp phần làm giá thành sản phẩm tăng cao và giảm khả năng cạnh tranh với các nước xuất khẩu tôm lớn như Ecuador, Ấn Độ. Vì vậy, tôi mong rằng chúng ta sẽ đầu tư nhiều hơn nữa cho khoa học công nghệ, với sự tham gia nhiều hơn của các chuyên gia hàng đầu có trình độ khoa học phù hợp để ngành tôm nước ta phát triển đúng trình độ và cạnh tranh với các nước xuất khẩu tôm lớn khác.
Chính phủ và các bộ liên quan cũng cần hỗ trợ doanh nghiệp nhập khẩu nguyên liệu phù hợp để sản xuất và xuất khẩu. Hiện nay, nhiều doanh nghiệp chủ động đã thu giữ và thực hiện gia công hàng hóa cho các nước EU. Đây là cách để chúng ta học hỏi họ về mặt quản lý, thực tiễn sản xuất, kinh doanh. Bây giờ, không phải là lúc để đứng yên. Từ đó, các doanh nghiệp này có thể thu mua nguyên liệu phục vụ sản xuất. Trong 5-10 năm tới, chúng ta có thể tận dụng cơ hội này để tái tạo nguồn lợi hải sản và xây dựng lại cơ sở hạ tầng hỗ trợ trên bờ. Ngư dân cũng đang dần chuyển sang nuôi trồng thủy sản hoặc thay đổi quy mô. Giống như Na Uy, khi chuyển đổi, chính phủ mua lại các tàu thuyền nhỏ và hỗ trợ tài chính cho ngư dân để mua tàu lớn hơn. Đây là chiến lược cần thiết để phát triển ngành thủy sản.
Theo VIR
Bình luận