Phải đến cuối năm 2025, Việt Nam mới bắt đầu phân bổ tín chỉ carbon cho 20.000 ha lúa. Tại hội nghị về chương trình tín dụng ưu đãi thực hiện '1 triệu ha lúa chất lượng cao, phát thải thấp' tại Đồng bằng sông Cửu Long, tổ chức ngày 7/11 tại Đồng Tháp, Thứ trưởng Bộ NN&PTNT Trần Thanh Nam cho biết đây là dự án đầu tiên trên thế giới có quy mô lớn 1 triệu ha do Chính phủ chỉ đạo. Dự án đã thu hút sự quan tâm đặc biệt của các tổ chức quốc tế và đại sứ quán. "Khi Nhà nước cam kết, Nhà nước sẽ ban hành chính sách, cơ chế về sản xuất và quy trình canh tác bền vững, phát thải thấp. Chúng tôi đang hợp tác với các tổ chức quốc tế để tìm ra quy trình canh tác chuẩn", Nam cho biết.
Theo ông Nam, các tổ chức quốc tế khuyến nghị quy mô sản xuất 1.000-2.000 ha là lý tưởng để giúp giảm chi phí thu gom khí thải. Trong quá trình sản xuất, nông dân và hợp tác xã có thể tạo ra những hạt lúa chất lượng cao, phát thải thấp, từ đó giảm chi phí và tăng năng suất. Về việc cấp chứng chỉ giảm phát thải, Bộ NN&PTNT đã áp dụng thử nghiệm tại Sóc Trăng, Bạc Liêu, Kiên Giang, Đồng Tháp và Cần Thơ. Những thành quả bước đầu của chương trình canh tác ít phát thải 1 triệu ha rất đáng khích lệ khi chi phí sản xuất giảm 20-30%, năng suất tăng 10-15%, hệ số giảm phát thải trung bình 5-6 tấn CO2/ha. “Khi mới triển khai, mô hình không thu hút được nông dân. Nhưng sau đó, ngày càng nhiều hộ nông dân muốn tham gia”, ông Nam cho biết. Một số công ty, tổ chức nước ngoài đã đến Việt Nam tìm kiếm đối tác trong nước để triển khai các dự án canh tác ít phát thải. Tuy nhiên, ông Nam cảnh báo các địa phương cần thận trọng với các kế hoạch này, vì “thị trường tín chỉ carbon rất phức tạp”. Trong khi đó, đến cuối năm 2025, Việt Nam mới bắt đầu cấp tín chỉ carbon cho 20.000 ha lúa. “Các doanh nghiệp, tổ chức nước ngoài đổ xô đến Việt Nam mua tín chỉ vì các nước châu Âu nói rằng họ có tín chỉ từ năm sau”, ông giải thích.
Để sản xuất được lúa chất lượng cao, ít phát thải, người nông dân phải tuân thủ nhiều nguyên tắc và thay đổi phương pháp canh tác truyền thống. Ví dụ, trong thủy lợi, người sản xuất lúa phải tuân thủ nghiêm ngặt thời điểm tháo nước khỏi ruộng lúa. Người nông dân cũng phải thay đổi thói quen đốt rơm rạ và đẩy rơm rạ xuống bùn. Điều này sẽ tạo ra khí nhà kính, gây hại cho môi trường. Một số doanh nghiệp hiện muốn mua rơm rạ và phụ phẩm nông nghiệp với số lượng lớn, trong khi một số khác muốn tái chế trấu để tạo ra chất ma sát cho lốp ô tô. Nếu người nông dân có thể đáp ứng các yêu cầu trong quá trình sản xuất, họ sẽ nhận được tín dụng carbon, đây sẽ là một loại hàng hóa được giao dịch trên thị trường. Nguyên tắc chính của chương trình trồng lúa chất lượng cao, ít phát thải 1 triệu ha là liên kết nông dân, hợp tác xã và doanh nghiệp thành chuỗi liên kết. Tuy nhiên, họ cần phải liên kết trong sản xuất, không chỉ trong bán hàng.
Không giới hạn khoản vay
Phó Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam Đào Minh Tú, đại diện tham dự hội nghị, cho biết Ngân hàng Nhà nước và các ngân hàng thương mại cam kết cung cấp đủ vốn vay để thực hiện chương trình. “Chúng ta cần phải tổ chức lại cơ cấu, muốn đi xa thì phải tìm kiếm sự hỗ trợ từ nhau. Các bên liên quan phải đoàn kết, trung thành. Nếu chỉ tìm kiếm lợi ích cá nhân thì chương trình sẽ thất bại”, ông Tú nói. Những người nông dân tham gia chương trình có thể tiếp cận các khoản vay ngân hàng và được cấp hạn mức tín dụng phù hợp với quy mô và phạm vi sản xuất của họ. Các doanh nghiệp đầu tư trung hạn có thể tiếp cận các khoản vay dài hạn. Nếu các doanh nghiệp muốn vay 1.000 tỷ đồng vốn trung và dài hạn, họ có thể tìm kiếm các khoản vay hợp vốn từ nhiều ngân hàng.
Các ngân hàng thương mại cam kết cho vay ưu đãi với lãi suất thấp hơn ít nhất 1% so với cho vay thương mại, không cần tài sản thế chấp. Agribank sẽ là ngân hàng chính giải ngân cho chương trình mà không hạn chế tín dụng. Khách hàng chỉ cần mở tài khoản tại ngân hàng, ngân hàng có thể kiểm soát dòng tiền. Ông Tú nhấn mạnh, theo chương trình, nông dân có thể tiếp cận các khoản vay ngân hàng không cần tài sản đảm bảo (không cần tài sản thế chấp) vì ngân hàng có thể kiểm soát dòng tiền. Đây là điều kiện rất quan trọng để các ngân hàng tham gia chương trình. Liên tục khẳng định sẽ không hạn chế nguồn vốn cho vay, ông Tú cho biết nếu các ngân hàng thương mại không thu xếp được vốn, ngân hàng trung ương sẽ can thiệp thông qua việc tái cấp vốn cho các ngân hàng thương mại.
Các giải pháp linh hoạt là yếu tố then chốt để phát triển thị trường tín dụng carbon
Theo các chuyên gia, Việt Nam cần xây dựng lộ trình cụ thể cho quá trình chuyển đổi sang năng lượng xanh cũng như thiết kế và quản lý hệ thống giao dịch phát thải hướng tới vận hành chính thức thị trường carbon vào năm 2028.
Để giảm phát thải và đạt được mục tiêu phát thải ròng bằng 0, Việt Nam cần thúc đẩy tiết kiệm năng lượng và sử dụng hiệu quả tài nguyên thiên nhiên thông qua việc ứng dụng các công nghệ tiên tiến, phát thải thấp và triển khai các mô hình kinh tế tuần hoàn, ông Nguyễn Tuấn Quang, Phó Tổng cục trưởng Tổng cục Biến đổi khí hậu, Bộ Tài nguyên và Môi trường (TN&MT) cho biết. Ông nhấn mạnh sự cần thiết phải làm cho sản xuất nông nghiệp xanh hơn, với dự án trồng 1 triệu ha lúa chất lượng cao và phát thải thấp để giảm phát thải 3-5 tấn carbon/ha. Nhà chức trách này cũng nhấn mạnh đến việc phát triển rừng và hệ sinh thái để tăng cường hấp thụ khí nhà kính vì hệ sinh thái rừng ngập mặn ven biển hấp thụ khí thải gấp bốn lần so với rừng tự nhiên.
Theo Bộ TN&MT, 70 quốc gia và vùng lãnh thổ trên toàn thế giới đã thực hiện định giá carbon thông qua các công cụ như thuế carbon và thị trường. Biện pháp này hiện kiểm soát hơn 11 tỷ tấn carbon, tương đương 20% lượng khí thải toàn cầu. Việc thành lập thị trường các-bon và lộ trình phát triển của thị trường này đã được quy định tại Luật Bảo vệ môi trường năm 2020 và Nghị định số 06/2022/NĐ-CP của Chính phủ về giảm phát thải khí nhà kính và bảo vệ tầng ozon. Theo kế hoạch, Việt Nam sẽ phân bổ hạn ngạch phát thải từ tháng 6 năm 2025 và sau đó bắt đầu giao dịch tín chỉ phát thải. Như vậy, không còn nhiều thời gian để chuẩn bị, ông Quang lưu ý. Ông cho biết, việc đánh giá tác động của hệ thống giao dịch phát thải (ETS) và tín chỉ carbon tại Việt Nam sẽ do Văn phòng Dịch vụ Dự án Liên hợp quốc chủ trì, thực hiện từ nay đến tháng 6 năm 2025, để hỗ trợ triển khai giai đoạn thí điểm, đồng thời cho biết thêm rằng khoảng 150 doanh nghiệp và các đơn vị phát thải lớn trong các lĩnh vực như sản xuất sắt thép, xi măng và nhiệt điện dự kiến sẽ được đưa vào thị trường carbon trong giai đoạn này.
Định giá carbon
Tại hội thảo gần đây về đánh giá tác động của ETS và tín chỉ carbon tại Việt Nam do Bộ Biến đổi Khí hậu tổ chức, Tiến sĩ Robert Ritz từ Đại học Cambridge cho rằng định giá carbon có thể giúp giảm phát thải nhanh chóng và tiết kiệm chi phí. Ông lấy Vương quốc Anh làm ví dụ. Việc áp dụng thuế carbon trong lĩnh vực điện đã giúp giảm 26% lượng khí thải carbon từ sản xuất điện chỉ trong ba năm. Ông tiếp tục nói rằng quốc gia châu Âu này đã ngừng sản xuất điện than từ ngày 1/10, nhấn mạnh rằng các quy định về hạn ngạch phát thải là động lực chính thúc đẩy định giá carbon.
Frederic Gagnon-Lebrun, một cố vấn đến từ Nam Cực, một nhà phát triển dự án hàng đầu và là nhà cung cấp các giải pháp hành động vì khí hậu toàn cầu, cũng đề xuất rằng bên cạnh tính minh bạch trong các cơ chế quản lý, chính phủ nên đơn giản hóa các quy tắc và yêu cầu để tạo điều kiện thuận lợi cho việc quản lý và cho phép những người tham gia thị trường carbon dễ dàng thiết lập các mô hình tài chính.
Nguyễn Hồng Loan, Giám đốc Công ty TNHH Đổi mới Khí hậu Xanh (GreenCIC) và là người đứng đầu nhóm chuyên gia về chính sách khí hậu, cho biết việc đánh giá tác động của hệ thống giao dịch phát thải và tín chỉ carbon là điều cần thiết để thị trường carbon hoạt động hiệu quả trong tương lai. Do đó, với tư cách là nhóm cố vấn hỗ trợ kỹ thuật cho Việt Nam, nhóm sẽ phân tích khuôn khổ pháp lý và kinh nghiệm quốc tế của Việt Nam để xác định các phương án thiết kế và quản lý, tập trung vào các phương án khả thi cho thị trường carbon thí điểm trong giai đoạn 2025-2027./.
Theo VNA, VNS
Bình luận