Các nhà chức trách và lãnh đạo trong ngành khai thác thủy sản xa bờ của Trung Quốc đang hợp tác để thúc đẩy tiêu dùng thủy sản xa bờ ở các khu vực nội địa của nước này, coi đây là một giải pháp nhằm kìm chế lạm phát giá và bảo tồn thủy sản nội địa.
Các nhà chức trách từ Bộ Nông nghiệp Trung Quốc đã tham gia cùng với các thành viên của Hiệp hội Khai thác Thủy sản Xa bờ của Trung Quốc tại Trùng Khánh gần đây cho sự kiện “Promoting Ocean Seafood Inland” (tạm dịch: Xúc tiến tiêu dùng thủy sản biển trong đất liền”), từ tháng 9/2021 và sẽ tổ chức liên tục tại các điểm dừng tại Changsha, Wuhan, Hefei, và Xi'an. Các sự kiện này diễn ra tại các khách sạn sang trọng của các thành phố này và sẽ trưng bày các loại thủy sản đặc sắc cùng với trình diễn ẩm thực.
Phối hợp với Cục Quản lý Thủy sản thuộc Bộ Nông nghiệp Trung Quốc – là cơ quan cấp phép cho các đội tàu đánh bắt xa bờ của Trung Quốc – sự kiện trên nhằm giảm áp lực lạm phát lên giá thủy sản Trung Quốc thông qua khuyến khích tiêu dùng thủy sản khai thác có nguồn gốc Trung Quốc, đồng thời tạo thuận lợi cho thực chi lệnh cấm khai thác thủy sản kéo dài 10 năm trên sông Dương Tử và các nhánh của sông này – một lệnh cấm đã có hiệu lực từ năm 2021 nhằm đối phó với tình trạng cạn kiệt nguồn lợi thủy sản tại con sông lớn nhất Trung Quốc, theo một thông cáo báo chí cho hay.
Phát biểu trên một video tới cuộc gặp mặt tại Trùng Khánh, nhà chức trách thuộc Ủy ban Quản lý thủy sản Li Shumin cho biết tăng tiêu dùng thủy sản xa bờ có “tầm quan trọng chiến lược” với tham vọng địa chính trị của Trung Quốc cũng như sự lành mạnh của chế độ ăn uống tại nước này. Ông Li cho biết cá ngừ, mực, cá trích, tôm, cá đù vàng có giá trị dinh dưỡng cao và “các nguồn dinh dưỡng chiến lược, có giá trị cao”. Cũng trong sự kiện, Hiệp hội Thủy sản Khai thác Xa bờ Trung Quốc đã ký biên bản ghi nhớ để tăng cường hợp tác với Hội đồng Thương mại ngành dịch vụ ăn uống Trùng Khánh.
Vị thế của Trung Quốc là nước chế biến và tiêu dùng thủy sản lớn nhất thế giới nghĩa là nước này có vai trò rất lớn trong đảm bảo năng suất và tính bền vững của các nguồn lợi thủy sản tự nhiên, theo báo cáo gần đây về nhâp khẩu thủy sản do các nhóm học giả Mỹ và Trung Quốc thực hiện. Theo báo cáo “Feeding the Dragon: The Evolution of China’s Fishery Imports”, báo cáo cho biết tương quan giữa tăng nhập khẩu của Trung Quốc và rủi ro IUU trên toàn cầu. Trên dữ liệu hải quan toàn cầu, báo cáo cho thấy sự nổi lên của Trung Quốc trở thành một siêu cường về chế biến buộc các nước phát triển khác phải giảm giá bán nhưng tạo điều kiện cho các thương hiệu thủy sản tại các nước phát triển tăng biên lợi nhuận.
GDP trên đầu người của Trung Quốc tăng nhanh trong 2 thập kỷ qua và tiêu dùng nội địa cất cánh, Trung Quóc vẫn đang tìm cách đa dạng nguồn cung thủy sản, với tỷ lệ cao hơn nguồn cung đến từ nhiều nước cung cấp hơn. Nhập khẩu thủy sản của Trung Quốc tăng vọt từ mức 1,03 triệu tấn năm 1992 lên 5,9 triệu tấn năm 2018 với giá trị tăng từ 6,8 tỷ NDT (1,02 tỷ USD) lên 80,2 tỷ NDT (12 tỷ USD) trong cùng kỳ so sánh.
Chỉ số khai thác thủy sản IUU, tính điểm các nước theo chất lượng luật và các nỗ lực thực thi chống lại khai thác thủy sản phi pháp, không báo cáo và không có quy định (IUU), được sử dụng trong báo cáo nói trên, cho thấy lượng thủy sản cập cảng Trung Quốc từ các nước khác. Trên cơ sở giá trị bình quân, ngày càng nhiều hoạt động nhập khẩu thủy sản của Trung Quốc đến từ các nước có cải thiện trong thang điểm IUU, nhưng trên cơ sở lượng, tỷ lệ nguồn cung ngày càng cao đến từ các nước có xếp hạng thấp hơn trên bảng tính, trùng với các nước thường có ghi nhận IUU không mấy tích cực.
Sự gia tăng vượt trội về khối lượng theo giá trị trong đợt tăng nhập khẩu của Trung Quốc được giải thích một phần là do nhập khẩu giáp xác của Trung Quốc tăng mạnh kể từ năm 2010. Các nước giàu – phần nhiều là thành viên của Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế (OECD) – đã chiếm phần lớn mức tăng giá trị nhập khẩu thủy sản của Trung Quốc do nhu cầu của người tiêu dùng nước này với các loại thủy sản cao cấp hơn như tôm hùm và tôm. Để so sánh, 43% nhập khẩu thủy sản khai thác tự nhiên và 53% nhập khẩu thủy sản thân mềm từ các nước thuộc tứ phân vị kém nhất của chỉ số. Mực chiếm 1/3 sản lượng khai thác của các đôi khai thác thủy sản xa bờ của Trung Quốc và 65% nguồn cung mực ống của Trung Quốc (cả nội địa và nhập khẩu) được dùng để đáp ứng nhu cầu xuất khẩu, theo báo cáo Feeding the Dragon. Và liên quan tới bột cá và dầu cá, 86% lượng nhập khẩu của Trung Quốc đến từ các nước ngoài OECD, bao gồm nhiều nước Tây Phi, nhưng về giá trị, nhập khẩu từ các nước ngoài OECD và các nước OECD gần như ngang bằng nhau. Sự đa dạng hóa nguồn nhập khẩu bột cá và dầu cá gần đây của Trung Quốc nhằm giảm sự phụ thuộc vào Peru so với trước đây, các nguồn bột cá và dầu cá mới có các vấn đề nghiêm trọng liên quan đến IUU, theo báo cáo cho hay.
Nhìn chung, báo cáo cho biết vị thế của Trung Quốc là nước chế biến và nhập khẩu thủy sản lớn nhất thế giới, gắn với sự nổi lên mạnh mẽ vị thế là trung tâm chế biến và xuất khẩu thủy sản thế giới trong các thập niên 80s và 90s, với quy mô nhập khẩu thủy sản cho tiêu dùng và tái xuất khổng lồ. Tuy nhiên, sự thụt lùi trong toàn cầu hóa – mà một nguyên nhân quan trọng là cuộc chiến thương mại Mỹ - Trung Quốc cũng như sự rút lui từ phía các nước phương Tây trước nhận thức rằng họ đang phụ thuộc quá nặng nề vào các chuỗi cung ứng của Trung Quốc – cùng với các quy định khắt khe tại các cảng Trung Quốc về kiểm soát COVID-19, hiện đang đe dọa các xu hướng tạo nên sự trỗi dậy của Trung Quốc. Tuy nhiên, báo cáo cũng phát hiện ra rằng Trung Quốc đang chuyển dịch nền kinh tế thủy sản của nước này sang mô hình mới, do nhập khẩu thủy sản của Trung Quốc dự báo tiếp tục tăng trưởng trong những năm tới. Nước này dự báo sẽ chiếm 38% tổng tiêu dùng thủy sản làm thực phẩm vào năm 2030.
Theo Seafood Source
Bình luận