Những lý do khiến xuất khẩu rau quả giảm mạnh
Sau nhiều năm tăng trưởng liên tục với tốc độ ấn tượng, xuất khẩu rau quả Việt Nam gần như rơi tự do sau khi cuộc chiến thương mại Mỹ - Trung Quốc nổ ra hồi giữa năm ngoái. Và từ đầu năm 2019, tốc độ tăng trưởng rơi vào trạng thái âm. Tuy nhiên, khi xem xét kỹ hơn, một số vấn đề nội tại của ngành có thể là nguyên nhân dẫn đến bước thụt lùi này.
Đầu tiên, giá trị xuất khẩu rau quả Việt Nam tăng mạnh lần đầu ở mức 35,3% vào năm 2011 và tăng trưởng duy trì tốt cho tới năm 2017 ở mức trung bình 33,6%/năm. Tốc độ này đã đẩy giá trị xuất khẩu rau quả tăng từ 623 triệu USD trong năm 2011 lên 1 tỷ USD trong năm 2013 và đạt 3,5 tỷ USD trong năm 2017. Tốc độ tăng trưởng này không có đối thủ bởi bất cứ lĩnh vực xuất khẩu nông sản nào của Việt Nam.
Từ khía cạnh sản xuất, tốc độ tăng trưởng như vậy có vẻ phi lý bởi diện tích trồng cây ăn quả tại Việt Nam vẫn không đổi, ở mức dưới 800.000ha trong 10 nămt ừ 2005 – 2014, và tăng nhẹ trong 2 năm sau đó (kể từ năm 2017, số liệu này không công bố cho tới các thống kê về diện tích và sản lượng một số loại rau công khai gần đây).
Từ khía cạnh nhập khẩu, mức tăng xuất khẩu nói trên lại rất hợp lý. Theo số liệu thống kê, trong 6 năm từ năm 2012 – 2017, nhập khẩu rau quả cũng tăng với tốc độ lên tới 31,9%/năm và tăng từ 293 triệu USD lên 1,55 tỷ USD. Trong cùng kỳ so sánh, chỉ riêng nhập khẩu rau quả từ Thái Lan đã tăng gần 20 lần, từ 48 triệu USD lên mức cao kỷ lục 857 triệu USD. Các nhà chức trách cũng xác nhận rằng khoảng 90% hoặc gần như toàn bộ nhập khẩu trái cây từ Thái Lan là để tái xuất sang thị trường Trung Quốc. Do đó, nếu “lượng xuất khẩu rau quả Thái Lan trung chuyển” được loại bỏ, xuất khẩu rau quả Việt Nam sẽ chỉ ở mức 594 triệu USD trong năm 2011 và hơn 2,7 tỷ USD trong năm 2017. Ngay cả với mức xuất khẩu này thì tốc độ tăng trưởng trung bình trong giai đoạn 2012 – 2017 cũng lên tới 30,6%/năm.
Do đó, số liệu thống kê xuất khẩu rau quả không phản ánh chân thực bức tranh nông nghiệp Việt Nam trong năm 2012 – 2017. Ngược lại, trong hơn 1 năm kể từ cuộc chiến thương mại Mỹ - Trung Quốc, xuất khẩu rau quả đột nhiên chuyển sang hình chữ U. Dữ liệu cho thấy bất chấp việc tăng 18,9% trong nửa đầu năm 2018, tổng giá trị xuất khẩu rau quả cả năm 2018 chỉ tăng 8,7%, và 6% trong nửa đầu năm 2019. Nguyên nhân chính cho sự suy giảm này là xuất khẩu rau quả sang Trung Quốc liên tục yếu đi, với mức giảm lên tới 416 triệu USD trong 7 tháng đầu năm 2019. Xuất khẩu rau quả sang thị trường Trung Quốc vẫn chiếm tới 70% tổng kim ngạch xuât khẩu rau quả của Việt Nam, so với mức 74,9% ghi nhận trong năm 2018. Đồng thời, nhập khẩu rau quả, đặc biệt là từ Thái Lan, vẫn ghi nhận mức tăng trưởng tích cực, nhưng ở tốc độ chậm hơn và chiếm 36,9% tổng kim ngạch nhập khẩu rau quả của Việt Nam.
Tất cả những điểm trên cho thấy rõ ràng sự suy giảm xuất khẩu rau quả chủ yếu do sức mua yếu đi của thị trường Trung Quốc. Tuy nhiên, luồng rau quả Thái Lan trung chuyển qua Việt Nam sang Trung Quốc vẫn tăng lên, cho thấy mức suy giảm xuất khẩu rau quả của Việt Nam càng nghiêm trọng hơn.
Tóm lại, xuất khẩu rau quả suy giảm là một vấn đề đáng lo ngại, chủ yếu liên quan đến vấn đề bỏ hết trứng vào một giỏ (thị trường Trung Quốc). Đây là một bức tranh của hai màu tương phản: những thành tích rất ấn tượng trong những năm trước nhờ phần lớn vào luồng rau quả Thái Lan và khó khăn chưa từng có hiện nay được giảm nhẹ phần nào nhờ các sản phẩm Thái Lan.
Hy vọng vào các giải pháp mới
Như đã đề cập, xuất khẩu rau quả Việt Nam bắt đầu giảm mạnh vào đầu năm 2018. Nguyên nhân đằng sau không phải do cuộc chiến thương mại Mỹ - Trung Quốc mà thực tế là Trung Quốc đã bắt đầu thắt chặt kiểm soát thương mại biên giới và chuyển dịch sang nhập khẩu chính ngạch, cộng với các điều chỉnh trong sản xuất nội địa, bao gồm mở rộng mạnh diện tích trồng thanh long. Trong nửa đầu năm 2019, nhập khẩu rau quả vẫn tăng vọt 19,8% so với cùng kỳ năm 2018, trị giá 7,8 tỷ USD, theo dữ liệu của ITC. Ngoài xuất khẩu sang thị trường Trung Quốc suy yếu, xuất khẩu rau quả Việt Nam sang thị trường lớn thứ 2 là Mỹ tăng nhẹ và tình hình xuất khẩu không đổi sang các thị trường khác.
Trong bối cảnh đó, 2 bài học được rút ra. Thứ nhất, xét tới việc bỏ hết trứng vào một giỏ (thi trường Trung Quốc), rõ ràng phần lớn các nhà xuấtkhẩu Việt Nam không tập trung phát triển các thị trường khác để mở rộng thị phần và tối thiểu hóa rủi ro khi các thị trường lớn diễn biến phức tạp.
Thứ hai, thực tế là xuất khẩu rau quả giảm mạnh khi Trung Quốc chuyển từ nhập khâur tiểu ngạch sang nhập khẩu chính ngạch với các yêu cầu chất lượng cao hơn, cho thấy những thiếu sót cơ bản và nghiêm trọng trong hệ thống sản xuất, phân phối của Việt Nam. Đặc biệt, mối lo lớn nhất là khả năng đáp ứng các yêu cầu chất lượng sản phẩm về vệ sinh và an toàn thực phẩm (SPS).
Đây cũng là lý do chính vì sao rau quả Việt Nam cho tới nay mới chỉ thâm nhập được thị trường Trung Quốc. Điểm yếu này có thể xuất phát từ bản chất manh mún của ngành rau quả Việt Nam, bao gồm phần lớn là các hộ sản xuất nhỏ và siêu nhỏ. Mặc dù kinh nghiệm và kiến thức của nhiều nông dân là đáng nể, họ không được chuẩn bị để áp dụng các quy trình về vệ sinh và an toàn thực phẩm. Đó là sự đánh đổi giữa lạm dụng phân bón và thuốc BVTV để có năng suất tốt.
Nhiều điểm yếu trong chế biến rau quả
Xét tới hệ thống sản xuất và phân phối hiện tại, thương hiệu rau quả “made in Vietnam” vẫn là một giấc mơ xa vời. Tóm lại, mặc dù thị trường Trung Quốc từ lâu được coi là thị trường dễ tính nhưng đột nhiên trở nên khắt khe là một cú shock cho xuất khẩu rau quả Việt Nam.
Hy vọng sự thay đổi này sẽ là một cú đánh mạnh đủ để đánh thức ngành rau quả Việt Nam, từng bị ru ngủ bởi những kết quả ấn tượng. Không thể phủ nhận, thương mại tiểu ngạch với Trung Quốc giờ đã là quá khứ, việc tái cơ cấu ngành rau quả để giúp các sản phẩm đáp ứng các yêu cầu đa dạng và ngày càng khó tính của mỗi phân khúc trên thị trường rau quả thế giới là cách duy nhất để đưa toàn bộ tiềm năng của ngành rau quả được khai thác.
Theo SGTT
Bình luận