Ngành chăn nuôi và nuôi trồng thủy sản của Việt Nam tiếp tục tăng trưởng, thúc đẩy nhu cầu thức ăn chăn nuôi tăng cao. Sự tăng trưởng của ngành bánh mì và mì ăn liền đang thúc đẩy nhu cầu lúa mì tăng trưởng. Lượng lúa gạo nhập khẩu từ Campuchia tăng mạnh đang giúp bổ sung nguồn cung gạo trong nước cho tiêu dùng và xuất khẩu.
Ngành chăn nuôi và nuôi trồng thủy sản tiếp tục tăng trưởng khi người tiêu dùng Việt Nam đa dạng hóa chế độ ăn uống và xuất khẩu thủy sản tăng trưởng. Nhu cầu thức ăn chăn nuôi dự kiến sẽ tăng lên 28,7 triệu tấn vào năm dương lịch 2025 và 29,5 triệu tấn vào năm dương lịch 2026. Sản lượng ngô tiếp tục giảm, trong khi Việt Nam tăng xuất khẩu các nguyên liệu thức ăn chăn nuôi nội địa như sắn và cám gạo. Điều này đã đẩy nhu cầu nhập khẩu nguyên liệu thức ăn chăn nuôi như ngô và DDGS lên cao. Do đó, nhập khẩu ngô trong năm tài chính 2024/25 được dự báo sẽ tăng lên 12,2 triệu tấn. Nhập khẩu lúa mì trong năm tài chính 2024/25 cũng được dự báo sẽ tăng lên 5,72 triệu tấn dựa trên xu hướng nhập khẩu và nhu cầu mạnh mẽ từ các nhà chế biến thực phẩm và các nhà máy bánh mì. Sản lượng lúa gạo của Việt Nam dự kiến sẽ tiếp tục giảm dần do nông dân chuyển sang các loại cây trồng có doanh thu cao hơn.
Nguồn cung gạo trong nước đang được bổ sung nhờ lượng lúa nhập khẩu từ Campuchia tăng mạnh, tăng 54% trong nửa đầu năm tài chính 2025 so với cùng kỳ năm trước. Do đó, USDA Post đã nâng dự báo xuất khẩu gạo niên vụ 2024/25 lên 8,5 triệu tấn.
Tóm tắt ngành thức ăn chăn nuôi Việt Nam
Theo Tổng cục Thống kê, tổng sản phẩm quốc nội (GDP) của Việt Nam tăng trưởng 7,5% trong nửa đầu năm 2025. Sự tăng trưởng này được thúc đẩy bởi đầu tư công, đầu tư trực tiếp nước ngoài và hoạt động xuất khẩu mạnh mẽ. Ngành du lịch cũng ghi nhận sự tăng trưởng mạnh mẽ, với lượng khách quốc tế đạt 10,7 triệu lượt (tăng 21% so với cùng kỳ năm 2024). Tăng trưởng kinh tế mạnh mẽ đang hỗ trợ ngành chăn nuôi Việt Nam tiếp tục tăng trưởng.
Chính phủ Việt Nam hiện đang thực hiện tái cấu trúc hành chính toàn diện với mục tiêu nâng cao hiệu quả hoạt động của chính quyền. Có hiệu lực từ ngày 1/7 năm 2025, cả nước đã chuyển đổi từ hệ thống hành chính bốn cấp (trung ương, tỉnh, huyện và xã) sang hệ thống ba cấp, xóa bỏ cấp huyện. Số lượng đơn vị hành chính cấp tỉnh đã giảm từ 64 xuống còn 34. Một số đối tác thương mại lo ngại rằng những thay đổi nhanh chóng trong nước và quốc tế sẽ tạo ra những trở ngại cho các ngành phụ thuộc vào thương mại tại Việt Nam trong nửa cuối năm 2025. Bất chấp những thách thức chuyển tiếp này, chính phủ đã đặt ra mục tiêu tăng trưởng GDP đầy tham vọng là trên 8% cho năm 2025. Hầu hết các tổ chức quốc tế đều có dự báo thận trọng hơn về tăng trưởng GDP, bao gồm Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế (OECD) (6,2%), Ngân hàng Thế giới (6,8%), Quỹ Tiền tệ Quốc tế (5,4%) và Ngân hàng Phát triển Châu Á (6,6%).
Theo báo cáo của Bộ Nông nghiệp và Môi trường (MAE), sản xuất nông nghiệp vẫn ổn định trong sáu tháng đầu năm 2025. Chăn nuôi lợn và gia cầm tiếp tục phục hồi, được hỗ trợ bởi việc kiểm soát dịch bệnh hiệu quả, giá sản phẩm thuận lợi và tiêu dùng nội địa ổn định. Ngành chăn nuôi của Việt Nam đang chuyển sang tăng cường an toàn sinh học và áp dụng công nghệ mới. Xu hướng này được thấy ở cả các doanh nghiệp nông nghiệp lớn và các hộ chăn nuôi quy mô nhỏ.
Chăn nuôi lợn:
Đàn lợn đã phục hồi nhờ chuyển đổi từ chăn nuôi hộ gia đình truyền thống sang mô hình sản xuất bán công nghiệp và tăng cường hợp tác giữa các hộ chăn nuôi nhỏ lẻ và các doanh nghiệp thương mại lớn. Giá lợn hơi thuận lợi trong nửa đầu năm đã khuyến khích người chăn nuôi đầu tư mở rộng sản xuất. Tổng đàn lợn đến cuối tháng 6/2025 ước tính tăng 3,8% so với cùng kỳ năm 2024. Tại một số địa phương, đàn lợn đã tăng trưởng đáng kể, chẳng hạn như Gia Lai (tăng 30%), Kon Tum (tăng 20%) và Tây Ninh (tăng 48%).
Tuy nhiên, các dịch bệnh trên động vật như Dịch tả lợn Châu Phi (ASF), Lở mồm long móng, Bệnh da sần và Hội chứng rối loạn hô hấp và sinh sản ở lợn (PRRS hay "Bệnh tai xanh") vẫn là một thách thức. Một số nguồn tin cho biết dịch tả lợn châu Phi (ASF) nghiêm trọng hơn so với những gì được công bố trên các phương tiện truyền thông, góp phần làm tăng giá thịt lợn trong nửa đầu năm 2025. Thủ tướng Chính phủ đã ký Công điện số 109/CĐ-TTg ngày 16/7/2025, yêu cầu triển khai khẩn trương và đồng bộ các biện pháp phòng, chống dịch tả lợn châu Phi. Văn bản nêu rõ, sự lây lan liên tục của dịch bệnh này đặt ra thách thức đáng kể đối với các mục tiêu tăng trưởng năm 2025 của ngành chăn nuôi.
Hình 1. Giá thịt lợn và thịt gà công nghiệp trong nước
Nguồn: nguồn tin từ các nguồn tin trong nước và phương tiện truyền thông
Tỷ giá: USD: 26.125 VND (ngày 23/7/ 2025)
Chăn nuôi gia cầm:
Đàn gia cầm tháng 6/2025 ước tính tăng 4% so với tháng 6/2024. Sản lượng gia cầm tiếp tục tăng trưởng ổn định và không có dịch bệnh lớn nào xảy ra.
Chăn nuôi trâu bò:
Số lượng trâu bò trên toàn quốc tiếp tục giảm trong 6 tháng đầu năm 2025 do lợi nhuận thấp và diện tích chăn thả bị thu hẹp. Tổng đàn trâu bò vào cuối tháng 6/2025 ước tính giảm 3,4% so với cùng kỳ năm ngoái, trong khi đàn bò ước tính giảm 0,6%.
Nuôi trồng thủy sản:
Sản lượng nuôi trồng thủy sản nửa đầu năm 2025 ước tính đạt 2,6 triệu tấn, tăng 4,9% so với cùng kỳ năm ngoái. Sản lượng cá tra đạt 872.000 tấn trong nửa đầu năm 2025, tăng 4,5% so với cùng kỳ năm 2024. Theo Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu Thủy sản Việt Nam (VASEP), xuất khẩu cá tra đạt 1 tỷ USD trong nửa đầu năm, tăng 10% so với cùng kỳ năm ngoái. Mỹ, Brazil và các nước thành viên Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP) vẫn là những thị trường xuất khẩu chính.
Sản lượng tôm chân trắng đạt 366.900 tấn trong nửa đầu năm 2025, tăng 7,3% so với cùng kỳ năm ngoái. Sản lượng tôm sú đạt 125.100 tấn, tăng 3,6%. Điều kiện thời tiết thuận lợi và việc áp dụng các mô hình nuôi tôm công nghệ cao đã góp phần vào sự tăng trưởng sản lượng này. Tuy nhiên, một số nguồn tin bày tỏ lo ngại về các dịch bệnh mới nổi như Enterocytozoon hepatopenaei (EHP) và bệnh hậu ấu trùng trong mờ (TPD), cũng như tình trạng ô nhiễm môi trường tại các vùng nuôi trồng thủy sản. Những yếu tố này có thể ảnh hưởng đáng kể đến nỗ lực tái đàn, đặc biệt là đối với các hộ nuôi quy mô nhỏ. VASEP báo cáo xuất khẩu tôm của Việt Nam đạt 2,07 tỷ USD trong nửa đầu năm 2025, tăng 26% so với cùng kỳ năm ngoái. Các thị trường xuất khẩu hàng đầu là Hoa Kỳ, Trung Quốc và Nhật Bản.
Hình 2. Doanh thu xuất khẩu cá tra và tôm hàng tháng
Nguồn: VASEP, Dữ liệu Hải quan Việt Nam.
Nhu cầu thức ăn chăn nuôi được dự báo tăng nhẹ, đạt 28,7 triệu tấn vào năm 2025 và 29,5 triệu tấn vào năm 2026. Theo thống kê của Tổng cục Thống kê Quốc gia (NSO), xuất khẩu thức ăn chăn nuôi của Việt Nam đạt 603 triệu USD trong nửa đầu năm 2025, tăng 22% so với cùng kỳ năm 2024. Trung Quốc chiếm 45% giá trị xuất khẩu thức ăn chăn nuôi của Việt Nam, tiếp theo là Campuchia và Malaysia. Việt Nam cũng xuất khẩu các nguyên liệu thức ăn chăn nuôi như cám gạo và sắn. Xuất khẩu sắn tăng vọt 63% lên 2,3 triệu tấn, phần lớn được xuất khẩu sang Trung Quốc. Sự gia tăng mạnh mẽ trong xuất khẩu cả thức ăn chăn nuôi và nguyên liệu thức ăn chăn nuôi trong nước có thể ảnh hưởng đến nguồn cung trong nước và có thể ảnh hưởng đến nhu cầu nhập khẩu thức ăn chăn nuôi của Việt Nam trong nửa cuối năm 2025.
Bảng 1. Nhu cầu thức ăn chăn nuôi (tấn)
CY 2024 |
CY 2025 |
CY 2026 |
|
Thức ăn chăn nuôi |
21,300,000 |
22,173,100 |
22,938,500 |
Thức ăn thủy sản |
6,200,000 |
6,536,900 |
6,561,500 |
Tổng |
27,500,000 |
28,710,000 |
29,500,000 |
Nguồn: Ước tính và dự báo của Post
Bảng 2. Nhu cầu nguyên liệu thức ăn chăn nuôi (tấn)
Năm |
CY 2024 |
CY 2025 |
CY 2026 |
Nhập khẩu |
21,750,000 |
22,960,000 |
23,975,000 |
Bột đậu tương |
6,610,000 |
7,110,000 |
7,310,000 |
Ngô |
8,800,000 |
9,350,000 |
9,728,000 |
Bã ngũ cốc khô (DDGS) |
1,280,000 |
1,310,000 |
1,567,000 |
Lúa mỳ làm TACN |
2,500,000 |
2,575,000 |
2,660,000 |
Cám gạo, gạo tấm |
730,000 |
715,000 |
720,000 |
Cám / bột nguồn gốc thực vật |
1,200,000 |
1,250,000 |
1,290,000 |
Các bột protein khác |
630,001 |
650,000 |
700,000 |
Nguồn cung nội địa |
5,750,000 |
5,750,000 |
5,525,000 |
Ngô |
1,750,000 |
1,700,000 |
1,650,000 |
Cám gạo, gạo tấm |
3,490,000 |
3,400,000 |
3,200,000 |
Sắn |
510,000 |
650,000 |
675,000 |
Tổng |
27,500,000 |
28,710,000 |
29,500,000 |
Nguồn: Ước tính của Post. *Bao gồm lượng đậu nành nghiền trong nước nhập khẩu.
Theo FAS USDA
Bình luận