Trồng dừa có thể thu về 25.000 USD từ việc bán tín chỉ carbon
Bán tín chỉ carbon không còn là điều xa vời đối với Việt Nam. Cả nước thu về hàng nghìn tỷ đồng từ bán tín chỉ carbon vào cuối năm 2023. Gần đây, ngành nông nghiệp triển khai dự án phát triển 1 triệu ha đất trồng chất lượng cao, ít phát thải ở Đồng bằng sông Cửu Long. Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Trần Thành Nam cho biết, loại gạo phát thải thấp đầu tiên của Việt Nam sẽ được sản xuất vào tháng 8/2024. Đồng bằng sông Cửu Long không chỉ là vựa lúa mà còn là quê hương của cây dừa. Tất cả các bộ phận của cây dừa, từ thân, lá, hoa đều có thể được sử dụng để tạo ra các sản phẩm có giá trị gia tăng. Và nông dân cũng có thể nhận được tín chỉ carbon từ việc trồng dừa.
Tại Sokfarm, thuộc sở hữu của Thạch Thị Chal Thi và Phạm Đình Ngãi, cây dừa hữu cơ được trồng để lấy mật. Từ mật hoa, họ có thể tạo ra nhiều loại sản phẩm, từ nước tương, giấm mật ong, mật đường, mật dừa lên men, hạt cacao và mật hoa dừa. Theo anh Ngãi, một khóm hoa dừa có thể tạo ra khoảng 10 quả dừa, có thể bán với giá 50.000 đồng. Trong khi đó, nếu dùng hoa để lấy mật, một chùm hoa có thể mang lại 25 lít mật, trị giá 250.000 đồng. Như vậy, một hộ nông dân có thể kiếm tới 6 triệu đồng/tháng nếu có 20 cây dừa. Sokfarm có 50 hộ trồng dừa hữu cơ theo tiêu chuẩn quốc tế về mật hoa. Chal Thi cho biết biến đổi khí hậu ngày càng nghiêm trọng và dừa là loại cây chịu hạn hán và xâm nhập mặn ở đồng bằng sông Cửu Long. Sokfarm đặt mục tiêu đến năm 2030 có 500 hộ nông dân và 1.000 hộ trồng dừa vào năm 2035. Trồng dừa không chỉ mang lại nguồn tiền từ việc khai thác mật hoa mà còn góp phần to lớn vào việc chống biến đổi khí hậu. Vợ chồng anh Ngãi đang tìm kiếm thông tin và làm theo các thủ tục để có thể bán tín chỉ carbon từ dừa.
Người ta ước tính rằng mỗi cây dừa sau 10 năm trồng có thể tạo ra lượng tín chỉ carbon trị giá 1 USD/cây. Trang trại hiện có 25.000 cây dừa hơn 10 năm tuổi, có thể mang lại ít nhất 25.000 USD cho nông dân. Trong khi đó, họ ngày càng trồng nhiều cây dừa hơn mỗi năm. Giữa tháng 4, tỉnh Bến Tre bắt đầu đánh giá tiềm năng tham gia thị trường carbon của tỉnh. Các cơ quan địa phương đang nghiên cứu và xây dựng tín chỉ carbon cấp tỉnh Bến Tre trong một số lĩnh vực, trong đó tập trung vào dừa. Trong xu hướng phát triển bền vững và giảm phát thải, tín chỉ carbon đã trở thành cơ hội hấp dẫn cho ngành nông nghiệp và vùng chuyên canh dừa ở Bến Tre. Bến Tre hiện có trên 79.000 ha diện tích trồng dừa và ước tính 1 ha dừa có thể chứa 25-75 tấn CO2. Với mức giá tín dụng carbon tối thiểu là 5 USD/tấn CO2, Bến Tre có thể thu được 10-30 triệu USD từ cây dừa.
Thu nhập bổ sung từ việc bán tín dụng carbon dừa
Ở Việt Nam, dừa là cây nông nghiệp chủ lực. Việt Nam hiện đứng thứ bảy thế giới về sản xuất dừa với diện tích trồng 188.000 ha, tập trung chủ yếu ở các tỉnh Bến Tre, Trà Vinh, Tiền Giang và Vĩnh Long. Năm 2023, xuất khẩu dừa mang lại kim ngạch 900 triệu USD cho Việt Nam. Theo bà Nguyễn Thị Kim Thanh, Chủ tịch Hiệp hội Dừa Việt Nam, kim ngạch xuất khẩu dừa của Việt Nam có thể đạt 1 tỷ USD vào cuối năm 2024. Thanh cho biết các sản phẩm làm từ dừa rất đa dạng, từ thực phẩm đến thủ công mỹ nghệ, tạo sinh kế cho 390.000 hộ gia đình Việt Nam.
Giá trị kinh tế của cây dừa sẽ còn tăng cao hơn nữa nhờ việc bán tín dụng carbon dừa. Việt Nam cam kết cắt giảm phát thải khí nhà kính xuống 0 vào năm 2050. Trong khi đó, 1 ha cây dừa có thể hấp thụ 70-75 tấn CO2 mỗi năm. Một chuyên gia ước tính, với diện tích trồng dừa hiện có và khả năng hấp thụ carbon của cây, nếu Việt Nam bán tín chỉ carbon dừa với giá bằng tín dụng carbon rừng thì cả nước sẽ thu thêm hàng nghìn tỷ đồng mỗi năm. Tuy nhiên, ông Trần Minh Hải từ Trường Chính sách công và Phát triển Nông thôn, chỉ ra rằng để tạo ra tín chỉ carbon từ dừa, nông dân cần thay đổi phương pháp canh tác và sử dụng công nghệ mới để giảm phát thải khí nhà kính.
Tín dụng carbon – Giải pháp tái trồng rừng Tây Nguyên
Với diện tích rừng hiện có, việc phát triển tín dụng carbon đồng nghĩa với việc mở khóa “mỏ vàng” tài nguyên thiên nhiên mà các chủ rừng từ lâu đã hy vọng tận dụng được. Tây Nguyên có hơn 2,57 triệu ha rừng, chiếm 17,5% diện tích rừng cả nước, tỷ lệ che phủ rừng toàn vùng đạt 45,94%. Bất chấp những nỗ lực của chính quyền địa phương trong những năm gần đây nhằm thực hiện nhiều biện pháp phục hồi rừng khác nhau, kết quả vẫn không như mong đợi. Các chuyên gia lâm nghiệp nhấn mạnh sự cần thiết phải giải quyết những thách thức kinh tế liên quan đến việc phục hồi rừng ở Tây Nguyên. Cụ thể, việc khai thác tiềm năng tín dụng carbon mang lại lợi ích kinh tế đáng kể và có thể giúp giảm bớt những trở ngại mà ngành lâm nghiệp phải đối mặt. Sau quyết định chính thức đóng cửa rừng của Chính phủ, nhiều công ty lâm nghiệp và chủ rừng đã phải đối mặt với nhiều thách thức khi phải vật lộn với những vấn đề kinh tế chưa được giải quyết xung quanh lâm nghiệp. Với diện tích rừng hiện có, việc phát triển tín dụng carbon đồng nghĩa với việc mở khóa “mỏ vàng” tài nguyên thiên nhiên mà các chủ rừng từ lâu đã hy vọng tận dụng được.
Khu dự trữ carbon
Lâm Đồng là một trong những tỉnh có tỷ lệ che phủ rừng là 54,37% (tính đến năm 2023), với tổng diện tích 537.696 ha. Trong khu vực này, rừng tự nhiên có diện tích 454.674 ha, trong khi đất trồng rừng đã trưởng thành có diện tích 77.157 ha, còn lại hơn 6.137 ha đất trồng rừng chưa đến tuổi trưởng thành. Đi dọc các tuyến quốc lộ, tỉnh lộ nối liền Lâm Đồng với các tỉnh lân cận như Đồng Nai, Bình Thuận, Ninh Thuận, Khánh Hòa, Đăk Lăk, Đăk Nông, những dải rừng nguyên sinh, rừng lá kim, rừng tre bạt ngàn với độ che phủ dày đặc có thể dễ dàng quan sát thấy.
Kể từ năm 2004, khi Khu bảo tồn thiên nhiên Bidoup-Núi Bà được chỉ định là Vườn quốc gia Bidoup-Núi Bà, việc bảo vệ tài nguyên rừng và bảo tồn đa dạng sinh học là một trong những ưu tiên hàng đầu của khu bảo tồn. Theo ông Lê Văn Hướng, Giám đốc Vườn quốc gia Bidoup-Núi Bà, với diện tích gần 70.000 ha nằm ở trung tâm rừng tự nhiên cao nguyên Langbiang rộng lớn, vườn được công nhận là một trong những khu bảo tồn sinh thái quốc gia hàng đầu. tiêu chuẩn. Hơn nữa, nhờ hệ sinh thái rừng chủ yếu là nguyên sơ, Vườn quốc gia Bidoup-Núi Bà có tiềm năng đáng kể để tích cực tham gia vào thị trường carbon.
Dọc quốc lộ 27 hướng về Vườn quốc gia Tà Đùng (tỉnh Đăk Nông) là những khu rừng nguyên sinh rậm rạp, đan xen với nhiều loài gỗ quý. Ông Khương Thanh Long, Giám đốc Vườn quốc gia Tà Đùng, cho biết, vườn có diện tích khoảng 21.000 ha đất tự nhiên, với hơn 85% diện tích lõi được che phủ (bao gồm hơn 48% rừng nguyên sinh và hơn 36% rừng thứ sinh các loại). Với độ bao phủ rừng tự nhiên rộng lớn, Vườn quốc gia Tà Đùng được coi là nơi lưu trữ carbon đáng kể.
Giáo sư Bảo Huy, chuyên gia tư vấn chuyên về quản lý tài nguyên rừng và môi trường, giải thích rằng mỗi tín chỉ carbon rừng biểu thị việc giảm hoặc loại bỏ một tấn carbon dioxide hoặc tương đương với các loại khí nhà kính khác. Khả năng tích lũy carbon khác nhau tùy thuộc vào đặc điểm, điều kiện của từng loại rừng. Hiện nay, rừng Tây Nguyên được đánh giá có tiềm năng phục hồi và tăng trưởng nhanh, dẫn đến tích lũy trữ lượng carbon đáng kể. Việc thiết lập tín chỉ carbon và tham gia kinh doanh carbon dự kiến sẽ mang lại lợi ích đáng kể cho các chủ rừng. Tương tự, di chuyển về phía bắc ở Tây Nguyên, cũng có thể nhìn thấy nhiều khu rừng nguyên sinh tươi tốt, đặc biệt là ở Vườn quốc gia Chư Mom Ray, tỉnh Kon Tum, có diện tích khoảng 58.000 ha, trong đó 56.000 ha được chỉ định là rừng đặc dụng.
Ông Đào Xuân Thủy, Giám đốc Vườn Quốc gia Chư Mom Ray, cho biết trong kế hoạch quản lý rừng bền vững của Vườn giai đoạn 2021-2030, khu vực được quản lý ước tính sẽ lưu giữ khoảng 3 triệu tín chỉ carbon rừng. Nếu các khoản tín dụng này được bán đi, chúng sẽ mang lại nguồn thu đáng kể và bền vững để tái đầu tư vào các hoạt động quản lý và bảo vệ rừng.
Những kỳ vọng lớn
Ngắm nhìn những cánh rừng xanh bạt ngàn, Giám đốc Vườn quốc gia Chư Mom Ray chia sẻ, tín chỉ carbon vẫn còn khá mới và hướng dẫn thực hiện chi tiết vẫn chưa được xây dựng đầy đủ. Một số doanh nghiệp đã nêu thắc mắc với tỉnh về triển vọng đầu tư vốn phối hợp với cơ quan quản lý rừng để thúc đẩy tái trồng rừng bền vững trên đất trống và thiết lập tín chỉ carbon cho cả rừng trồng và rừng tự nhiên ở tỉnh Kon Tum. Đơn vị này hy vọng rằng dự án có thể được thực hiện để tăng cường nguồn doanh thu bền vững. Ông cho biết trong thời gian tới, vườn quốc gia có kế hoạch triển khai một dự án khảo sát và đánh giá trữ lượng tín chỉ carbon, dự án này có thể làm nền tảng cho các giao dịch và quan hệ đối tác trong tương lai.
Đồng tình với quan điểm này, ông Trương Quốc Dũng, Trưởng Chi cục Kiểm lâm Krông Pa, tỉnh Gia Lai, tiết lộ diện tích rừng trong khu vực có thể tạo tín chỉ carbon là 70.000 ha. Nếu những khoản tín dụng này được bán thành công, chúng sẽ là nguồn doanh thu đáng kể để hỗ trợ các nỗ lực quản lý và bảo tồn rừng. Do đó, các chủ rừng đang háo hức mong đợi việc thực hiện dự án tín dụng carbon, dự án sẽ cung cấp cho họ nguồn lực bổ sung để bảo vệ rừng.
Theo ông Đinh Văn Dũng, Bí thư Huyện ủy Chư Prong, tỉnh Gia Lai, diện tích rừng trên địa bàn huyện khoảng 60.000 ha, chủ yếu tập trung dọc biên giới Campuchia. Phần lớn diện tích rừng này hiện được quản lý theo sự sắp xếp của từng hộ gia đình. Nếu tín dụng carbon được bán thành công, những khu rừng này sẽ được bảo vệ tốt hơn, thúc đẩy môi trường xanh hơn, bảo tồn nguồn nước, nâng cao chất lượng không khí và kích thích phát triển nông nghiệp và du lịch.
Người dân địa phương sẽ được hưởng sinh kế được cải thiện và góp phần duy trì hòa bình dọc biên giới. Vì vậy, rất mong muốn chính quyền tỉnh, các bộ, ngành liên quan nhanh chóng rà soát, khảo sát diện tích rừng để xây dựng lộ trình bán tín chỉ carbon, nhằm mang lại lợi ích cho người dân địa phương và hỗ trợ các nỗ lực quản lý, bảo tồn rừng. Tín dụng carbon rừng được xác định bởi lượng carbon dioxide được tạo ra từ các hoạt động nhằm giảm phát thải khí nhà kính, như chống phá rừng và ngăn chặn suy thoái rừng, quản lý tài nguyên rừng bền vững, bảo tồn và tăng trữ lượng carbon rừng. Chủ rừng có thể chuyển đổi diện tích rừng mà họ quản lý và bảo vệ thành khả năng hấp thụ carbon dioxide, cấp tín chỉ carbon và bán tín chỉ carbon.
Người trồng rừng địa phương ở tỉnh Quảng Trị được hưởng lợi từ việc bán tín chỉ carbon
Người dân địa phương vui mừng và phấn khởi khi được hưởng lợi từ việc bảo vệ rừng và bán tín chỉ carbon ở tỉnh ven biển miền Trung Quảng Trị. “Mọi người đều cảm thấy vui vẻ khi nhận được tiền”, ông Hồ Văn Chiến nói với tờ báo điện tử Vietnamnet. Chiến, 64 tuổi, Trưởng Ban Quản lý Rừng cộng đồng thôn Chênh Vênh, huyện Hướng Hóa trong tỉnh, đã tham gia tuần tra rừng địa phương trong 8 năm qua. Ông cho biết, ban quản lý được thành lập năm 2017, được giao nhiệm vụ quản lý và bảo vệ 600 ha (ha) rừng tự nhiên, gồm toàn bộ người dân tộc Vân Kiều. Lúc đầu, mọi người đều là tình nguyện viên.
Ban quản lý điều hành sáu đội tuần tra, mỗi đội gồm sáu hoặc bảy thành viên và mỗi đội sẽ có ba khu vực rừng để kiểm tra hàng tháng dọc theo các tuyến đường đã được thiết lập. Ông cho biết, khi gặp người lạ hoặc có dấu hiệu xâm lấn rừng, các đội tuần tra sẽ can thiệp, đẩy lùi người ngoài và báo cáo cơ quan chức năng để có biện pháp xử lý phù hợp. Nhờ các biện pháp bảo vệ nghiêm ngặt, rừng phát triển mạnh, với nhiều cây tự nhiên đường kính lớn và các loài có giá trị từng nằm trong Sách đỏ Việt Nam là loài cực kỳ nguy cấp, quay trở lại sinh sống tại khu vực. Ông nói: "Thành thật mà nói, trước đây chúng tôi không hề biết gì về tín dụng carbon. Chúng tôi chỉ làm nhiệm vụ bảo vệ rừng vì chúng tôi cho rằng bảo vệ rừng chính là bảo vệ môi trường sống cho thế hệ mai sau".
Sau đó, vào cuối năm 2023, ông Chiến được biết về tín chỉ carbon và tham gia một số khóa đào tạo. Vào tháng 2, ngôi làng đã nhận được khoản thanh toán tín dụng carbon đầu tiên và phân phối cho các hộ gia đình. Ông Chiến nói: “Số tiền tuy không nhiều nhưng vẫn là động lực để người dân bảo vệ rừng tốt hơn”. Nhờ kết quả đạt được, thôn được yêu cầu bảo vệ thêm 200ha rừng tự nhiên, nâng tổng diện tích rừng do thôn quản lý lên gần 800ha. Ông Hồ Văn Kiên, thành viên Ban Quản lý và bảo vệ rừng thôn Ruộng, huyện Hướng Hóa, cho rằng số tiền bán tín chỉ carbon đủ để người dân địa phương quyết tâm hơn trong việc bảo vệ rừng. Tỉnh là một trong 6 tỉnh miền Trung thí điểm bán tín chỉ carbon và quản lý tài chính theo thỏa thuận chi trả giảm phát thải khí nhà kính theo Nghị định số 107/2022/NĐ-CP do Chính phủ ban hành năm 2022, tỉnh đã kiếm được hơn 51 tỷ đồng (1,99 triệu USD) từ việc bán tín chỉ carbon, số tiền này được chuyển đến các đội bảo vệ rừng ở các làng và chủ rừng. Trung bình, mỗi ha rừng tự nhiên nhận được khoảng 120.000 đồng (4,7 USD) từ các dịch vụ hấp thụ và lưu trữ carbon. Toàn tỉnh có trên 126.000ha rừng tự nhiên, trong đó có trên 20.000ha do các đội bảo vệ rừng quản lý.
Chứng chỉ xanh
Ngoài việc bảo vệ rừng tự nhiên, tỉnh có thể bán tín dụng từ rừng trồng. Toàn tỉnh hiện có hơn 26.000ha cây đã được cấp chứng chỉ quản lý rừng bền vững từ Hội đồng quản lý rừng (FSC), Chương trình chứng chỉ rừng Việt Nam (VFCS) và Chương trình xác nhận chứng chỉ rừng (PEFC).
Ông Hoàng Đức Doanh, Chủ tịch Nhóm Chứng chỉ Rừng Quảng Trị, giải thích rằng Hội đồng Quản lý Rừng (FSC) là một tổ chức phi chính phủ, được thành lập năm 1993, ban hành các chỉ thị phát triển và quản lý rừng bền vững trên toàn thế giới. FSC có các tiêu chí nghiêm ngặt mà nếu đáp ứng được sẽ cấp chứng nhận được quốc tế công nhận. Ông cho biết, Việt Nam có tiêu chuẩn riêng, bao gồm 10 nguyên tắc và 150 tiêu chí dựa trên hướng dẫn của FSC.
Năm 2010, tỉnh là địa phương đầu tiên ở Việt Nam được trao Chứng chỉ Quản lý rừng bền vững FSC. Ông Doanh cho biết, ông vẫn còn nhớ những khó khăn ban đầu trong việc thuyết phục người dân trồng rừng có chứng chỉ vào thời điểm đó, bởi họ chỉ quen với cách trồng truyền thống. Thời gian cần thiết để rừng được chứng nhận mới phát triển là rất lớn, chỉ mất 4 đến 5 năm để thu hoạch gỗ trồng truyền thống nhưng phải mất tới 12 năm để thu hoạch từ rừng được chứng nhận. Khi đó, các doanh nghiệp cũng lưỡng lự vì trên thị trường chưa có sự chênh lệch về giá giữa gỗ có chứng chỉ và gỗ không có chứng chỉ.
Ông Hà Sỹ Đồng, Phó Chủ tịch UBND tỉnh cho biết, năm 2008, tỉnh đã mời các tổ chức quốc tế đánh giá công tác quản lý rừng bền vững tại Công ty Cổ phần Lâm nghiệp Bến Hải. Ông cho biết họ đã cung cấp một tài liệu dài 300 trang về các điều kiện cần cải thiện để đạt được chứng nhận FSC. Quá trình vượt qua những thách thức này kéo dài trong hai năm, khi Quỹ Động vật hoang dã Thế giới (WWF) và Hội đồng Quản lý Rừng đánh giá lại tình hình. Năm 2010, kết quả là khoảng 95% các khuyến nghị đã được đáp ứng. Sau đó, Công ty TNHH MTV Lâm nghiệp Bến Hải trở thành công ty đầu tiên ở Việt Nam được trao Chứng chỉ Quản lý rừng bền vững FSC, ông nói.
Từ mô hình này, việc trồng rừng có chứng chỉ đã được mở rộng ra nhiều địa phương khác và từ 8.600ha rừng phòng hộ ban đầu khi bắt đầu chương trình, đến nay đã có hơn 26.000ha. Theo ông Doanh, hiện nay người dân địa phương đã thấy được lợi ích của việc trồng rừng có chứng chỉ.
Gỗ trồng được chứng nhận có thể được bán với giá cao hơn, cao hơn tới 12% so với gỗ thông thường và các doanh nghiệp thường có khả năng ký được các hợp đồng lớn. Trong những năm gần đây, các thị trường như Mỹ, EU và Nhật Bản đã tăng yêu cầu đối với các sản phẩm bền vững, áp đặt các quy định mới đối với hàng hóa nhập khẩu nhằm ngăn chặn nạn khai thác gỗ trái phép và ngăn chặn nạn phá rừng. Vì vậy, gỗ từ rừng có chứng chỉ khi xuất khẩu đều đáp ứng đủ điều kiện để vào được tất cả các thị trường. Khi có được thị trường xuất khẩu gỗ ổn định thì sinh kế của người nông dân cũng sẽ được ổn định.
Theo VNS, SGGP
Bình luận