Với dân số 1,4 tỷ người, Trung Quốc là thị trường quan trọng cho nông sản Việt Nam. Tuy nhiên, thị trường khổng lồ này không còn dễ tính. Thay vì nhập khẩu mọi loại nông sản, từ năm 2018, Trung Quốc bắt đầu thay đổi các quy định.
Trong hơn 2 tháng đầu năm 2022, tình trạng tắc nghẽn nông sản tại các cửa khẩu biên giới Việt Nam – Trung Quốc tại các tỉnh Quảng Ninh và Lạng Sơn vẫn chưa giải quyết được. Số lượng xe tải chở nông sản chờ thông quan tại các cửa khẩu này có thể lên tới gần 6.000 xe vào thời gian cao điểm. Nguyên nhân chính của tình trạng tắc nghẽn chưa từng có tiền lệ này là việc Trung Quốc triển khai chiến lược “Zero COVID”, thắt chặt kiểm soát dịch bệnh tại các tỉnh vùng biên. Tuy nhiên, đây không phải là lần đầu tiên tình trạng này xảy ra. Bất cứ khi nào tình trạng này xảy ra, giá nông sản lao dốc và nông sản hư thối trên đồng, hoặc “các chiến dịch giải cứu” nông dân lại tràn lan.
Thị trường khổng lồ ngày càng khó tính
Với dân số 1,4 tỷ dân, Trung Quốc là thị trường quan trọng cho nông sản Việt Nam. Tuy nhiên, thị trường khổng lồ này không còn dễ tính. Thay vì nhập khẩu tất cả các loại nôgn sản, từ năm 2018, Trung Quốc đã thay đổi các quy định. Không chỉ tăng cường thanh tra và truy xuất nguồn gốc hàng hóa nhập khẩu, các công ty Trung Quốc yêu cầu hàng hóa Việt Nam tuân thủ các yêu cầu của cơ quan hải quan Trung Quốc về giấy phép kiểm dịch, xuất xứ, thông tin về nhà máy đóng gói, mã hàng hóa và mã QR.
Ông Huỳnh Tấn Đạt, cục phó Cục BVTV, cho biết Trung Quốc đã thay đổi nhiều quy định về kiểm dịch thực vật và an toàn thực phẩm đối với hàng hóa nhập khẩu. Trung Quốc đang thắt chặt kiểm soát hàng hóa giao dịch biên mậu, đặc biệt là thương mại tiểu ngạch, cùng với các yêu cầu về đàm phán đối với từng loại sản phẩm. Ngoài ra, Trung Quốc quy định điều tiết hàng hóa nhập khẩu dưới dạng các nghị định thư và yêu cầu có các thông cáo về mã vùng trồng cùng với các cơ sở đóng gói.
Danh sách thuốc trừ sâu của Trung Quốc bao gồm 500 loài, bao gồm một số loài phổ biến trong xuất khẩu trái cây tươi của Việt Nam. “Trung Quốc không còn là thị trường dễ tính”, theo ông Ngô Xuân Nam, phó giám đốc Văn phòng SPS Việt Nam. Năm 2021, Trung Quốc đã ban hành 42 thông báo về thay đổi quy định vệ sinh an toàn thực phẩm và kiểm dịch động thực vật. Gần đây nhất, các nhà chức trách Trung Quốc đã ban hành các tiêu chuẩn GB 2763-2021 về 10.092 giới hạn dư lượng đối với 564 loại thuốc trừ sâu, trên danh sách 376 loại thực phẩm. So với tiêu chuẩn trước, số loại thuốc trừ sâu theo tiêu chuẩn mới tăng thêm 81 loại, trong khi hạn chế dư lượng thuốc trừ sâu tăng thêm 2.985 loại, tăng 42%. Trung Quốc cũng ban hành các Công lệnh 248, 249 cho hàng hóa nhập khẩu về các tiêu chuẩn an toàn thực phẩm à vùng trồng. Nông sản xuất khẩu sang thị trường Trung Quốc phải đáp ứng các tiêu chuẩn an toàn và các tiêu chí ở mức cao.
Thu nhập của người tiêu dùng Trung Quốc tăng cũng dẫn tới thay đổi các xu hướng tiêu dùng. Ngày càng nhiều người tiêu dùng Trung Quốc đang lựa chọn các sản phẩm chất lượng cao, có nguồn gốc xuất xứ rõ ràng. Trong khi đó, các nhà sản xuất nông sản Việt Nam vẫn giữ các thói quen sản xuất cũ và chậm thay đổi nên xuất khẩu nông sản sang Trung Quốc đang giảm dần.
Theo dữ liệu từ Bộ NNPTNT, giai đoạn 2011 – 2018, Trung Quốc là thị trường tiêu thụ rau quả lớn nhất của Việt Nam, chiếm tới 75% tổng giá trị xuất khẩu rau quả cả nước. Năm 2018, khi Trung Quốc đặt ra nhiều rào cản kỹ thuật, xuất khẩu rau quả sang Trung Quốc đạt 2,58 tỷ USD, giảm 2,5% so với năm 2017. Năm 2019 và năm 2020, giá trị xuất khẩu rau quả sang Trung Quốc lần lượt là 2,3 tỷ USD và 1,82 tỷ USD. Mặc dù vẫn là thị trường xuất khẩu rau quả lớn nhất của Việt Nam, thị phần của thị trường này giảm từ 70% xuống còn 56%. Trong năm 2021, giá trị xuất khẩu rau quả sang Trung Quốctăng lên 1,92 tỷ USD nhưng thị phần của thị trường này chỉ còn 54,5%. Hiện Việt Nam có 9 loại rau quả được phép xuất khẩu chính ngạch sang Trung Quốc. Tuy nhiên, cho tới nay, hơn 70% rau quả Việt Nam sang thị trường này vẫn qua cửa khẩu biên giới với giá trị thương mại nhỏ.
Một số ý kiến cho rằng thị trường Trung Quốc đóng mở khó lường nên các nhà xuất khẩu rau quả Việt Nam nên tìm kiếm thị trường mới để tránh phụ thuộc vào thị trường Trung Quốc. Tuy nhiên, với dân số đông nhất thế giới tăng tốc độ tăng trưởng cao, Trung Quốc là thị trường khổng lồ mà bất cứ nước nào trên thế giới cũng thèm muốn. Việt Nam là nước láng giềng với Trung Quốc, có lợi thế cả về các tuyến đường bộ và đường biển, nên tận dụng lợi thế này.
Thích ứng
Bà Nguyễn Lan Hương, chủ tịch CTCP Nông nghiệp Quốc tế Hoa Việt, cho rằng một chiến lược cụ thể là cần thiết để xây dựng các thương hiệu cho nông sản Việt Nam trên thị trường Trung Quốc. Tuy nhiên, trước khi đi tới bước này, Việt Nam cần bắt đầu cải thiện quản lý chất lượng, quy trình trồng trọt, thu hoạch, chế biến, đóng gói và vận chuyển nông sản. Nói tóm lại, bà Hương cho rằng cần phải tiêu chuẩn hóa xuất khẩu rau quả sang thị trường Trung Quốc. Các cơ quan chức năng cần thiết lập các trung tâm và các nhóm công tác để hướng dẫn cho doanh nghiệp, HTX và các cơ quan chuyên trách tại địa phương tiên shành các quy trình theo yêu cầu của thị trường Trung Quốc. Các doanh nghiệp sẵn sàng chi trả cho các hướng dẫn và hỗ trợ cụ thể về vấn đề này, bà Hương cho hay.
Ông Trần Thanh Hải, cục phó Cục Xuất nhập khẩu thuộc Bộ Công thương, nhấn mạnh rằng bất kể là đường bộ, đường thủy hay đường sắt, hàng hóa Việt Nam phải đáp ứng các yêu cầu của Trung Quốc về an toàn thực phẩm, kiểm dịch thực vật và khả năng truy xuất nguồn gốc. Để chuyển dịch hiệu quả xuất khẩu sang Trung Quốc từ các tuyến đường bộ sang các tuyến đường biển, nông dân và các nhà xuất khẩu phải thay đổi tư duy sản xuất và kinh doanh. Họ cũng phải thay đổi khách hàng và tái thiết lập mạng lưới kinh doanh.
Ông Nguyễn Quốc Toản, cục trưởng Cục Chế biến Nông sản và Phát triển Thị trường thuộc Bộ NNPTNT, tiêu chuẩn hóa là cách duy nhất để thích ứng với những khó khăn và rào cản hiện nay. Ông chỉ ra 6 vấn đề chính cần thay đổi. Thứ nhất là thay đổi cách tiếp cận liên quan đến chế biến nông sản do bản chất sản xuất theo mùa. Đây là vấn đề liên quan đến quản lý vùng trồng cũng như chất lượng và khả năng truy xuất nguồn gốc sản phẩm. Mỗi sảnphẩm cần một chứng nhận sản xuất cụ thể, chi tiết, toàn diện và minh bạch. Thứ hai, quản lý chất lượng ngay từ đầu là chìa khóa. Nếu có thể làm được như vậy, hàng hóa tắc tại các cửa khẩu có thể ngay lập tức quay trở lại các nhà máy chế biến. Thứ ba là kết nối tiêu dùng nông sản theo hướng tạo ra hệ sinh thái tiêu dùng nông sản, ngay từ đầu mùa trồng trọt. Thứ tư là cải cách thể chế liên quan đến chế biến. Bộ NNPTNT đã phát triển một cơ chế chế biến bao trùm 13 khu vực cũng như các dự án riêng rẽ cho rau quả. Thứ năm là kết nối các tác nhân trong chuỗi giá trị, từ nông dân tới các chính quyền địa phương. Thứ sáu là xây dựng thương hiệu cho nông sản.
Theo VNS
Bình luận