Sản lượng cà phê Việt Nam năm thương mại MY2024/25 được dự báo đạt 29 triệu bao nhân xanh tương đương (GBE) do giá cà phê cao hơn khuyến khích nông dân trồng cà phê đầu tư nhiều hơn vào sản xuất, giúp ổn định sản xuất. Xuất khẩu được dự báo sẽ ổn định trong MY2024/25, trong khi nhập khẩu được dự báo sẽ tăng để đáp ứng nhu cầu nội địa ngày càng tăng.
Giá cà phê toàn cầu cao đã hỗ trợ ngành cà phê Việt Nam bất chấp thời tiết bất lợi trong nhiều năm qua. Nông dân đang sử dụng hệ thống tưới tiêu và trồng xen để giảm thiểu ảnh hưởng của gió lùa và nhiệt độ cao. Điều này đã giúp làm chậm đà suy giảm sản lượng cà phê ở Việt Nam. Do đó, họ đã tăng sản lượng ước tính cho MY2022/23 và MY2023/24. Xuất khẩu và nhập khẩu đều tăng trưởng. Giá cà phê toàn cầu mạnh đã hỗ trợ xuất khẩu tăng cao, trong khi người tiêu dùng cà phê trong nước đang yêu cầu đa dạng hơn. Các nhà chế biến cà phê trong nước cũng đang sử dụng hàng nhập khẩu để bổ sung nguồn cung trong nước, đặc biệt là vào mùa thấp điểm.
Các nhà chức trách nông nghiệp địa phương và quốc gia cũng như các viện nghiên cứu đang nỗ lực hỗ trợ nông dân trồng cà phê bằng cách cung cấp các giống cà phê mới và giúp nông dân trồng cà phê thay thế các giống cũ. Cũng đã có những nỗ lực lắp đặt hệ thống tưới tiết kiệm nước. Đồng thời, nhiệt độ cao và mùa khô kéo dài trong những năm gần đây đã gây căng thẳng cho cây cà phê và người nông dân. Mực nước ngầm cũng đang giảm ở nhiều khu vực, khiến việc tưới tiêu trở nên khó khăn hơn. Tăng trưởng dài hạn của ngành cà phê Việt Nam vẫn chưa chắc chắn, nhưng giá cà phê cao hơn dường như đã giúp ổn định mức sản xuất hiện nay.
Sản xuất cà phê
Tổng diện tích cà phê tại Việt Nam dự kiến sẽ duy trì ổn định ở mức khoảng 600.000 ha trong vài năm tới. Nông dân ở khu vực Tây Nguyên đã đa dạng hóa việc trồng trọt từ cà phê để bổ sung hoặc chuyển sang các loại cây trồng có thu nhập cao hơn như sầu riêng và chanh dây. Nông dân có thể kiếm được thu nhập gấp đôi trồng sầu riêng so với trồng cà phê. Tuy nhiên, giá cà phê tăng đã giúp ổn định diện tích cà phê và cà phê vẫn là cây trồng quan trọng ở các tỉnh vùng cao như Lâm Đồng và Đăk Lăk.
Nông dân báo cáo rằng nhiệt độ cao và hạn hán đã tác động tiêu cực đến sản xuất cà phê trong MY2023/2024. Những điều kiện thời tiết này dự kiến sẽ trở nên thường xuyên hơn theo thời gian do biến đổi khí hậu. Tỷ lệ che phủ rừng thấp và mực nước ngầm giảm ở một số khu vực cũng đặt ra những thách thức lâu dài đối với sản xuất cà phê. Độ che phủ của rừng giúp làm chậm quá trình bốc hơi và nhiều trang trại cà phê dựa vào giếng để tưới tiêu. Mùa mưa đến muộn vào năm 2024 và Việt Nam có nhiệt độ trên trung bình ở nhiều khu vực trong năm nay. Trong các chuyến thăm các khu vực sản xuất cà phê vào tháng 4/2024, những cánh đồng cà phê được tưới nước và che bóng nhìn chung ở tình trạng tốt, trong khi cây cà phê ở những cánh đồng lộ thiên thiếu nước tưới có vẻ bị căng thẳng về nước. Nông dân đã thành công trong việc giảm thiểu tác động của điều kiện thời tiết bất lợi trong năm nay, nhưng mức sản xuất hiện tại có thể khó duy trì trong tương lai nếu điều kiện như vậy tiếp diễn.
Sở Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn (Sở NN & PTNT) và Viện Khoa học Nông lâm nghiệp Tây Nguyên (WASI) đã xây dựng các chiến lược để duy trì và cải thiện sản xuất cà phê bền vững, như thay thế cây cà phê cũ bằng giống mới, khuyến khích trồng xen để tăng bóng mát và nước. giữ nước, áp dụng hệ thống tưới tiết kiệm nước và giúp nông dân trồng cà phê chứng nhận trang trại của họ để đạt được giá cao hơn. WASI cung cấp khoảng 4 đến 5 triệu cây cà phê cho nông dân hàng năm. Nơi đây có 22 giống Robusta năng suất cao, kháng hạn, kháng tuyến trùng và 2 giống chín muộn (thu hoạch vào tháng 1 và tháng 2). Dự án Chuyển đổi Nông nghiệp Bền vững Việt Nam (VnSat) của Ngân hàng Thế giới đã hỗ trợ nâng cấp 32 vườn ươm cà phê (11 vườn ươm công lập và 21 vườn ươm tư nhân) để giúp nông dân tiếp cận các giống cà phê cải tiến.
Chương trình tái canh cà phê của chính phủ trung ương cung cấp tín dụng cho nông dân để trồng lại cà phê cũ năng suất thấp bằng giống mới. Theo Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam (MARD), khoảng 130.000 ha trang trại cà phê cũ đã được trồng lại bằng cây mới và/hoặc ghép trong giai đoạn 2015-2021. Chương trình đã giúp tăng năng suất cà phê lên 2,8- 3,0 tấn/ha. Bộ NN & PTNT có kế hoạch trồng lại thêm 100.000 ha vào năm 2025. Theo Bộ NN & PTNT, khoảng 35% diện tích sản xuất cà phê đã được trồng lại.
Khoảng 30% tổng diện tích cà phê ở vùng cao được trồng xen canh với các loại cây trồng khác. Trồng xen canh cà phê với mật độ che bóng hợp lý cung cấp các loại cây trồng như hồ tiêu, bơ, sầu riêng, đào có thể làm giảm ảnh hưởng của nhiệt độ nóng và bệnh tật. Những loại cây trồng này cũng có thể mang lại thu nhập bổ sung cho nông dân trồng cà phê. Việc thay thế hoàn toàn cà phê bằng cây ăn quả có thể phải chờ 4-5 năm mới có vụ thu hoạch đầu tiên. Với việc trồng xen, nông dân có thể duy trì thu nhập từ cà phê đồng thời bổ sung thêm các loại cây trồng khác để đa dạng hóa và tăng thu nhập. Việc trồng xen canh còn có thể giảm thiểu rủi ro về biến động giá cả và thị trường, giúp ổn định diện tích cà phê. Các quan chức nông nghiệp địa phương đang khuyến khích nông dân mở rộng việc áp dụng phương pháp trồng xen vì những lý do này.
Theo báo cáo của Liên minh Bảo tồn Thiên nhiên Quốc tế (IUCN), nhu cầu nước cho sản xuất độc canh cà phê ở vùng cao Việt Nam là khoảng 1,12 tỷ mét khối mỗi năm. Cải tiến hệ thống tưới tiêu có thể tiết kiệm khoảng 290 triệu mét khối mỗi năm (giảm 26%). Áp dụng hệ thống tưới tiết kiệm nước cùng với trồng xen có thể tiết kiệm được khoảng 407 triệu mét khối nước (36%). Những biện pháp này có thể giúp sản xuất cà phê bền vững hơn và thích ứng với khí hậu hơn. Dự án VnSat của Ngân hàng Thế giới đã triển khai 316 hệ thống tưới tiết kiệm nước (trong đó có 110 hệ thống tưới nhỏ giọt và 206 hệ thống tưới phun mưa) cho các trang trại cà phê ở vùng cao. Tuy nhiên, hệ thống tưới này rất tốn kém đối với nông dân trồng cà phê và nó vẫn chỉ được sử dụng ở 5% trang trại cà phê tính theo diện tích.
Ngành cà phê Việt Nam đang triển khai nhiều chương trình chứng nhận để đáp ứng yêu cầu của người mua. Theo thống kê của Cục Trồng trọt, Bộ NN & PTNT, khoảng 30% diện tích trồng cà phê của Việt Nam đã được chứng nhận sản xuất cà phê bền vững, bao gồm 4C, Rainforest Alliance, UTZ Certified, Fairtrade, VietGAP, Global Ga, Organic và FLO. Tỉnh Lâm Đồng có diện tích cà phê được chứng nhận lớn nhất với 75.493 ha, tiếp theo là Đăk Lăk (63.600 ha), Gia Lai (36.620 ha) và Đăk Nông (23.489 ha).
Liên minh châu Âu (EU) là thị trường lớn của ngành cà phê Việt Nam và nông dân trồng cà phê Việt Nam đang rất chú ý đến Quy định mới về phá rừng của EU (EUDR) sẽ có hiệu lực vào cuối năm nay. Tuy nhiên, EU vẫn chưa ban hành hướng dẫn thực hiện rõ ràng và nông dân địa phương lo ngại về việc họ sẽ đáp ứng các yêu cầu này như thế nào, đặc biệt là nông dân quy mô nhỏ. Nông dân đã được chứng nhận với các chương trình như 4C hy vọng rằng sẽ có một số yêu cầu trùng lặp, giúp việc tuân thủ dễ dàng hơn.
Bảng 1: Sản lượng cà phê nhân xô Robusta Việt Nam niên vụ 2022/23-2024/25
|
MY2022/23 |
MY2023/24 |
MY2024/25 |
|
Ước tính |
Ước tính |
Ước tính |
Niên vụ bắt đầu từ |
T10/2022 |
T10/2023 |
T10/2024 |
Diện tích thu hoạch (ha) |
611,500 |
611,500 |
611,533 |
Sản lượng (ngàn tấn) |
27,300 |
28,000 |
27,850 |
Năng suất trung bình (tấn/ha) |
2.68 |
2.75 |
2.73 |
Nguồn: USDA Post ước tính và dự báo
Post dự báo tổng sản lượng cà phê MY 2024/25 của Việt Nam sẽ ổn định ở mức 29 triệu bao (GBE) do giá cà phê cao hơn giúp ngăn chặn xu hướng sản xuất giảm. Sản lượng Robusta được dự báo ở mức 27,85 triệu bao (GBE) và sản lượng Arabica được dự báo ở mức 1,15 triệu bao. Post nâng sản lượng cà phê ước tính MY2023/24 tăng 6% lên 29,1 triệu bao (GBE). Giá cà phê cao hơn trong MY2023/24 khiến nông dân tăng cường đầu tư vào lao động để giảm tổn thất thu hoạch cũng như các đầu vào khác. Post đã nâng sản lượng ước tính MY2022/23 lên 28,3 triệu bao (GBE) dựa trên số liệu thống kê sản xuất của chính phủ, bao gồm 27,3 triệu bao Robusta và 1 triệu bao Arabica. Sự gia tăng chủ yếu là do diện tích ước tính cao hơn. Thay vì chuyển hoàn toàn sang cây trồng khác, hiện nay nông dân trồng cà phê đang áp dụng phương pháp trồng xen để đa dạng hóa và tăng doanh thu.
Sản xuất cà phê Arabica ổn định do đất thích hợp cho sản xuất cà phê Arabica ở Việt Nam còn hạn chế.
Tiêu dùng cà phê
Ngân hàng Thế giới ước tính nền kinh tế Việt Nam tăng trưởng 5,6% trong quý 1/2024. Tuy nhiên, tiêu dùng tăng 4,9% trong quý 1/2024. Tăng trưởng việc làm cũng giảm đáng kể và tăng trưởng thu nhập cũng chậm lại. Bất chấp những cơn gió ngược này, mức tiêu thụ cà phê vẫn tăng.
Cà phê rẻ hơn nhiều loại đồ uống thay thế ở Việt Nam và cà phê được những người tiêu dùng có túi tiền ưa chuộng. Việt Nam cũng có nền văn hóa cà phê phát triển mạnh mẽ. Post ước tính rằng mức tiêu thụ cà phê sẽ tăng lên 3,6 triệu bao vào năm 2024/25. Ước tính sản lượng cà phê MY2023/24 được nâng lên 3,45 triệu bao nhờ nhu cầu mạnh mẽ.
Thương mại
Xuất khẩu
Xuất khẩu cà phê đạt 15,94 triệu bao (GBE) trong nửa đầu niên vụ 2023/2024 theo dữ liệu hải quan, giảm 7% so với niên vụ 2022/2023. Số liệu hải quan cho thấy xuất khẩu sang các thị trường lớn giảm mạnh như Bỉ (giảm 40%), Hoa Kỳ (giảm 20%) và Đức (giảm 17%). Tuy nhiên, xuất khẩu sang một số thị trường khác lại tăng, gồm Tây Ban Nha (tăng 33%), Nhật Bản (tăng 28%), Algeria (tăng 23%).
Biểu đồ 1: Xuất khẩu cà phê sang các thị trường chính trong nửa đầu MY19/20-MY23/24
Nguồn: Số liệu xuất khẩu của Hải quan Việt Nam từ tháng 10 đến tháng 3.
Post nâng dự báo xuất khẩu MY2023/24 lên 26,85 triệu bao (GBE) dựa trên số liệu thương mại và giá cà phê mạnh. Các doanh nghiệp Việt Nam có thể mở rộng xuất khẩu trong nửa cuối năm 2023/24 nhờ giá xuất khẩu cao. Tuy nhiên, các doanh nghiệp cà phê đang phải đối mặt với những khó khăn tiềm ẩn trong việc thu mua để xuất khẩu trong tương lai do giá trong nước cao. Một số nông dân cũng đang giữ lại lượng dự trữ để đề phòng giá tiếp tục tăng. Các doanh nghiệp xuất khẩu cà phê ngần ngại ký hợp đồng tương lai vì lo ngại không cân bằng được giá trong nước và xuất khẩu. Hiệp hội Cà phê Ca cao Việt Nam (VICOFA) dự đoán kim ngạch xuất khẩu cà phê năm 2024 sẽ đạt 5 tỷ USD. Post đã nâng ước tính xuất khẩu hạt cà phê niên vụ 2022/23 của MY lên 25,947 triệu bao dựa trên dữ liệu của Hải quan Việt Nam.
Biểu đồ 2: Lượng xuất khẩu cà phê hàng tháng MY 2019/2020 – MY 2023/2024
Nguồn: Hải quan Việt Nam, Tổng cục Thống kê Việt Nam và Post dự báo tháng 5-9/2024.
Xuất khẩu cà phê nhân xô
Xuất khẩu cà phê nhân xô của Việt Nam đạt 14,75 triệu bao trong nửa đầu MY2023/24, giảm 4,4% so với cùng kỳ năm tiếp thị trước (Hình 3). Post ước tính xuất khẩu cà phê nhân xô của Việt Nam trong MY2023/24 là 24,85 triệu bao (GBE) dựa trên thống kê và xu hướng thương mại. Post dự báo xuất khẩu cà phê nhân xô Việt Nam trong MY2024/25 đạt 24,4 triệu bao do giá xuất khẩu tiếp tục cao và nhu cầu mạnh.
Biểu đồ 3: Xuất khẩu cà phê nhân xô Việt Nam hàng tháng MY2019/20-MY2023/24
Nguồn: USDA Post ước tính. Dữ liệu hải quan chỉ có sẵn cho tổng lượng xuất khẩu. Dữ liệu từ tháng 5 đến tháng 9 năm 2024 dựa trên dự báo sau.
Xuất khẩu cà phê hòa tan và cà phê rang xay
Dựa trên số liệu thống kê thương mại, xuất khẩu cà phê rang và hòa tan trong nửa đầu MY2023/2024 tăng 16% so với năm trước. Ước tính xuất khẩu cà phê hòa tan và rang xay MY2023/24 không đổi ở mức 2 triệu bao (GBE). Giá cà phê nhân xuất khẩu cao đã gây khó khăn cho các nhà chế biến cà phê trong nước. Post dự báo xuất khẩu cà phê hòa tan và rang sẽ tăng nhẹ lên 2,1 triệu bao (GBE) trong niên vụ 2024/25.
Nhập khẩu cà phê
Nhu cầu cà phê đặc sản tại Việt Nam ngày càng tăng cùng với việc mở rộng các cửa hàng và chuỗi cà phê, hỗ trợ nhập khẩu hạt Arabica cũng như cà phê hòa tan và rang. Nhu cầu hạt xanh để chế biến cà phê cũng ngày càng tăng. Theo Hiệp hội Cà phê Ca cao Việt Nam (VICOFA), tổng công suất chế biến cà phê của Việt Nam khoảng 300.000-350.000 tấn/năm. Ngành chế biến phụ thuộc vào nhập khẩu để đáp ứng một phần nhu cầu cà phê đầu vào, đặc biệt là vào thời điểm trái vụ (tháng 3 đến tháng 9). Giá trong nước cao cũng khiến hàng nhập khẩu trở nên hấp dẫn hơn.
Hầu hết cà phê nhân xô nhập khẩu đến từ Indonesia, Brazil và Ấn Độ. Lào cũng là nhà cung cấp cà phê Arabica cho Việt Nam. Sản phẩm cà phê chế biến được nhập khẩu từ Brazil, Thái Lan, Indonesia, Australia, Bỉ. Khoảng 445.000 bao (GBE) đã được nhập khẩu vào Việt Nam trong nửa đầu năm 2023/24, tăng 52% so với cùng kỳ năm ngoái. Dựa trên những xu hướng này, ước tính nhập khẩu cà phê MY2023/24 ở mức 800.000 bao và dự báo nhập khẩu sẽ tăng lên 1,1 triệu bao (GBE) trong MY2024/25.
Giá cà phê
Giá cà phê xuất khẩu trung bình trong nửa đầu MY2023/24 đạt 3.244 USD/tấn, tăng 155% so với cùng kỳ năm ngoái (Hình 4). Nhu cầu toàn cầu cao và lo ngại về mất mùa ở Brazil và Indonesia đã đẩy giá cao hơn. Giá xuất khẩu cao mang lại lợi ích cho nông dân và ngành cà phê Việt Nam, nâng giá nội địa.
Biểu đồ 4: Giá xuất khẩu cà phê Robusta đậu xanh, MY2019/20 đến MY2023/24
Nguồn: Dữ liệu hải quan, Agro Monitor, Agro Info
Giá cà phê trong nước trong nửa đầu năm 2023/24 cao hơn 170% so với năm trước. Trong tháng 4/2024, giá đạt hơn 100.000 đồng/kg, lập kỷ lục mới.
Theo các nguồn tin trong ngành, giá cà phê cao khiến nhiều nông dân tích trữ cà phê sau khi thu hoạch thay vì bán ngay với hy vọng giá sau này sẽ cao hơn. Nông dân trồng xen ưu tiên bán trái cây dễ hư hỏng (sầu riêng, chanh dây, bơ, v.v.) và bảo quản cà phê lâu hơn.
Hình 5: Giá cà phê Robusta nhân xô tại địa phương, MY2019/20 đến MY2023/24
Nguồn: Thông tin nông nghiệp và liên hệ thương mại
Tồn kho
USDA Post đã tăng lượng tồn kho cuối niên vụ 2022/23 lên 892.000 bao (GBE) do nguồn cung cao hơn. Dự báo tồn kho cà phê cuối năm 2023/24 tăng nhẹ lên 492.000 bao do nguồn cung ước tính cao hơn. Tồn kho cà phê cuối năm 2024/25 được dự báo sẽ duy trì ổn định ở mức 492.000 bao.
Cà phê nhân xô |
2022/2023 |
2023/2024 |
2024/2025 |
|||
Niên vụ bắt đầu từ |
T10/2022 |
T10/2023 |
T10/2024 |
|||
Việt Nam |
USDA Chính |
USDA Post |
USDA Chính |
USDA Post |
USDA Chính |
USDA Post |
Tồn kho đầu kỳ (1000 bao 60kg) |
3580 |
3580 |
339 |
892 |
0 |
492 |
Sản lượng cà phê Arabica (1000 bao 60kg) |
900 |
1000 |
880 |
1100 |
0 |
1150 |
Sản lượng cà phê Robusta (1000 bao 60kg) |
26300 |
27300 |
26620 |
28000 |
0 |
27850 |
Tổng sản lượng cà phê (1000 bao 60kg) |
27200 |
28300 |
27500 |
29100 |
0 |
29000 |
Nhập khẩu cà phê (1000 bao 60kg) |
365 |
365 |
400 |
400 |
0 |
500 |
Nhập khẩu cà phê rang xay (1000 bao 60kg) |
8 |
8 |
200 |
200 |
0 |
300 |
Nhập khẩu cà phê hòa tan (1000 bao 60kg) |
126 |
126 |
120 |
200 |
0 |
300 |
Tổng nhập khẩu cà phê (1000 bao 60kg) |
499 |
499 |
720 |
800 |
0 |
1100 |
Tổng nguồn cung cà phê (1000 bao 60kg) |
31279 |
32379 |
28559 |
30792 |
0 |
30592 |
Xuất khẩu cà phê (1000 bao 60kg) |
25400 |
25947 |
23000 |
24850 |
0 |
24400 |
Xuất khẩu cà phê rang xay (1000 bao 60kg) |
450 |
450 |
350 |
350 |
0 |
400 |
Xuất khẩu cà phê hòa tan (1000 bao 60kg) |
1890 |
1890 |
1650 |
1650 |
0 |
1700 |
Tổng xuất khẩu cà phê (1000 bao 60kg) |
27740 |
28287 |
25000 |
26850 |
0 |
26500 |
Tiêu dùng cà phê rang xay (1000 bao 60kg) |
2650 |
2650 |
2650 |
2800 |
0 |
2900 |
Tiêu dùng cà phê hòa tan (1000 bao 60kg) |
550 |
550 |
550 |
650 |
0 |
700 |
Tổng tiêu dùng cà phê nội địa (1000 bao 60kg) |
3200 |
3200 |
3200 |
3450 |
0 |
3600 |
Tồn kho cuối kỳ (1000 bao 60kg) |
339 |
892 |
359 |
492 |
0 |
492 |
Tổng phân phối (1000 bao 60kg) |
31279 |
32379 |
28559 |
30792 |
0 |
30592 |
Theo FAS USDA
Bình luận