0

Đồng bằng sông Cửu Long của Việt Nam đang dần bị biến đổi do khai thác nước ngầm, dân số quá đông, ô nhiễm và biến đổi khí hậu. Nếu không được giải quyết, điều này sẽ làm giảm đáng kể sản lượng nuôi trồng thủy sản của Việt Nam và gây ra mối đe dọa nghiêm trọng đối với an ninh lương thực địa phương và khu vực. Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) của Việt Nam là một trong những vùng nuôi trồng hiệu quả nhất thế giới, tạo ra 65% sản lượng nuôi trồng thủy sản hàng năm của cả nước và 50% sản lượng thu hoạch lúa hàng năm - một thành tích không hề dễ dàng khi Việt Nam đứng thứ tư về sản lượng nuôi trồng thủy sản toàn cầu và là nước trồng lúa lớn thứ hai thế giới nhà sản xuất. Được người Việt Nam gọi là 'con rồng chín đuôi' sau chín cửa ra chính của nó, sông Mê Kông được mệnh danh là Amazon của châu Á, kéo dài 4.800 km từ Trung Quốc, Myanmar, Thái Lan, Lào và Campuchia, trước khi đổ vào Biển Đông qua các vùng đồng bằng của Việt Nam.

Chỉ riêng ở Việt Nam, ĐBSCL có hơn 1,1 triệu ha trang trại nuôi cá và tôm. Các mặt hàng thủy sản xuất khẩu chính bao gồm tôm chân trắng (Litopenaeus vannamei), cá tra (Pangasianodon hypothalamus) và cá rô phi sông Nile (Oreochromis niloticus). Ngành thủy sản Việt Nam đạt kim ngạch xuất khẩu cao nhất vào năm 2022, vượt 10 tỷ USD, trong đó ĐBSCL đóng góp 27% vào tổng sản phẩm quốc nội của cả nước. Tuy nhiên, mọi việc đang diễn biến theo chiều hướng tiêu cực. ĐBSCL đang dần bị biến đổi do khai thác nước ngầm, dân số quá đông, ô nhiễm và biến đổi khí hậu. Nếu không được giải quyết, điều này sẽ không chỉ làm giảm đáng kể năng suất của Việt Nam mà còn đe dọa an ninh lương thực địa phương và khu vực. Xét cho cùng, sông Mê Kông là vựa lúa của khu vực. Bà Nguyễn Kim Thanh và Steven Starmans: hướng tới một tương lai bền vững hơn cho Đồng bằng bằng cách hợp tác chặt chẽ với các nhà khai thác nuôi trồng thủy sản quy mô nhỏ và các bên liên quan khác để phát triển các giải pháp thực tế nhằm giải quyết những thách thức cấp bách nhất của khu vực.

Sông Mê Kông đang chìm

Một trong những vấn đề lớn nhất mà người dân và người nuôi cá ở vùng đồng bằng phải đối mặt là nó đang chìm xuống những độ sâu mới theo đúng nghĩa đen hàng năm. Starmans giải thích: “Việc khai thác quá nhiều nước ngầm để tưới tiêu, nuôi trồng thủy sản, công nghiệp và sử dụng trong gia đình đang gây ra hiện tượng sụt lún, lún đất. Các chuyên gia ước tính rằng đồng bằng đang chìm xuống tới 4 cm mỗi năm. Nghe có vẻ không nhiều lắm, cho đến khi bạn nhận ra phần lớn nó chỉ nằm cách mực nước biển một mét. “Đồng bằng đang bị tấn công từ cả hai phía. Khi nó đang chìm xuống, nó cũng bị nhấn chìm bởi mực nước biển dâng cao, khiến mực nước biển dâng cao thêm 3 mm mỗi năm,” Starmans lưu ý. Ông cho biết thêm: “Những thay đổi do con người hoặc do con người gây ra vượt xa tác động của biến đổi khí hậu theo tỷ lệ 13:1, do đó, mực nước biển dâng trong hơn 10 năm chỉ tương đương với một năm sụt lún - một nhận thức rất quan trọng cần thực hiện về những gì cần tập trung vào”.

Để ngăn chặn hoặc ít nhất là làm chậm đáng kể tình trạng chìm tàu ​​này, các trang trại và cộng đồng ở Đồng bằng sông Cửu Long phải hợp tác và cùng nhau đưa ra các giải pháp thông minh – theo chuyên gia của đội ngũ làm việc. Ông Starmans phản ánh: “Điều quan trọng là giảm khai thác nước ngầm bằng cách khai thác các nguồn nước ngọt thay thế, chẳng hạn như thu thập và trữ nước mưa, nước xám (graywater), đồng thời sử dụng các phương pháp tưới hiệu quả hơn”. “Việc nuôi tôm, cá nước ngọt cũng cần được xem xét lại ở một số vùng ở đồng bằng. Ít nhất, hệ thống sản xuất hiệu quả nên được sử dụng để tái sử dụng các nguồn tài nguyên quý giá. Ví dụ, sử dụng hệ thống nuôi trồng thủy sản tuần hoàn (RAS) có thể hữu ích. Tuy nhiên, những hệ thống này thường tốn kém và chắc chắn không phải là giải pháp tốt nhất cho nông dân quy mô nhỏ”.

Đất đang biến mất

Một thách thức lớn khác là khai thác cát, khai thác thương mại cát sông để xây dựng và cải tạo đất. Khai thác cát làm tăng dòng nước hạ lưu khi sông trở nên sâu hơn, do đó làm xói mòn bờ sông. Xói mòn các bờ sông từng ổn định là một vấn đề lớn mà cư dân ven sông phải đối mặt. Chỉ riêng từ năm 2018 đến 2020, 1.808 ngôi nhà - tương đương với cả 5 ngôi làng - đã chìm xuống sông Mê Kông. Thêm nNhiều ngôi nhà có thể sẽ bị mất hàng năm. Các trang trại nuôi cá và tôm sẽ ngày càng cần đầu tư nhiều hơn nữa để củng cố và sửa chữa đê ao. Starmans cho biết: “Những người sống qua nhiều thế hệ ở vùng đồng bằng biết cách giảm thiểu xói mòn bằng cách trồng và duy trì thảm thực vật như rừng ngập mặn dọc theo bờ sông”. “Tuy nhiên, cách làm này đang nhanh chóng mất đi vị thế.”

Nước mặn đang tràn vào

Ở vùng đồng bằng thấp hơn, thủy triều dao động tới ba mét. Trước đây, thủy triều dâng cao đã đưa nước biển vào sâu trong đất liền khoảng 20 đến 30 km. Phần lớn là do sụt lún và thay đổi thủy lực sông do khai thác cát, biển hiện có thể chảy sâu hơn 70 km vào đất liền. Do khai thác cát quá mức nên lượng trầm tích trên sông đã giảm đi. Điều này giúp nước biển nặng hơn dễ dàng chảy ngược dòng, tiến sâu hơn vào đất liền. Ngoài ra, việc khai thác quá nhiều nước ngọt được lưu trữ trong các tầng ngậm nước dưới lòng đất để lại những khoảng trống rộng lớn, có thể nhanh chóng bị nước biển lấp đầy, đặc biệt là ở vùng đồng bằng và các khu vực trũng thấp khác gần biển. Điều trầm trọng hơn là những tháng mùa hè tương đối dài và khô, có thể là do biến đổi khí hậu. Starmans cho biết: “Điều này tạo ra ít áp lực vật lý hơn đối với dòng nước ngọt để đẩy lùi dòng thủy triều”. Các ước tính hiện tại cho thấy nước biển xâm nhập có thể đạt tới 100 km vào đầu mùa khô, theo nghĩa đen là “làm mặn” vùng đồng bằng.

Xây đập

Sự xâm nhập của nước biển và sụt lún đất càng gia tăng do việc xây dựng các đập và các dự án cơ sở hạ tầng nước liên quan. Sông Mê Kông đi qua một số quốc gia và một phần sông đã bị xây dựng đập thủy điện nặng nề. Tính đến đầu năm 2024, có 167 nhà máy điện hiện đang sản xuất điện từ nước. Hầu hết các con đập này đều ở Trung Quốc và Lào, với đập lớn nhất là Nam Theun-2, tạo ra hơn một tỷ watt điện. Những con đập này điều tiết dòng nước bằng cách trữ lượng nước dư thừa trong các hồ nhân tạo lớn, khiến lưu lượng nước ở hạ lưu ước tính giảm khoảng 30%. Campuchia cũng đang lên kế hoạch xây dựng một siêu kênh để nối trực tiếp sông Mê Kông trong lãnh thổ nước này với Vịnh Thái Lan, khiến tình hình càng trở nên trầm trọng hơn.

Mặc dù các con đập là nguồn năng lượng tái tạo nhưng chúng có thể ảnh hưởng nghiêm trọng đến cuộc sống ở hạ lưu. Trong số những tác động đáng kể nhất là làm giảm trầm tích cần thiết để duy trì sự sống ven sông, ngăn chặn sự di cư của cá và phá vỡ hình thái lũ lụt lâu đời đã định hình sự sống trong nhiều thiên niên kỷ. Việc ngăn nước ở thượng nguồn cũng làm giảm khả năng đẩy nước biển của sông, làm tình trạng xâm nhập nước biển trở nên trầm trọng hơn, đồng thời làm giảm nguồn nước ngọt sẵn có cho nông dân trồng lúa và nuôi cá.

Phát triển các giải pháp đơn giản nhưng thông minh

Bà Thanh lưu ý: “Trong hầu hết các trường hợp, các hộ nông dân nhỏ dường như bị lãng quên và bị gạt ra khỏi kế hoạch phát triển tổng thể cũng như các dự án lớn của các nhà tài trợ nước ngoài”. “Công ty chúng tôi cố gắng chịu trách nhiệm bằng cách chủ yếu làm việc với nông dân quy mô nhỏ trong việc phát triển bí quyết quan trọng và giải pháp thông minh để giải quyết các thách thức trong khu vực của chúng tôi”. Bà tin rằng tất cả các bên liên quan nên làm việc cùng nhau để đảm bảo rằng các kế hoạch giải quyết những thách thức hiện tại ở đồng bằng sẽ mang tính toàn diện hơn. “Chính phủ đã làm được nhiều việc liên quan đến nông nghiệp địa phương và các hiệp hội phụ nữ. Mỗi làng có một hoặc hai hiệp hội và họ cố gắng hoạt động rất tích cực.” Bà vẫn tin rằng chính phủ có thể làm tốt hơn để đảm bảo rằng nhu cầu của nông dân quy mô nhỏ được đưa vào quy hoạch tổng thể của chính phủ. Bà nói thêm: “Những người nông dân quy mô lớn nên chịu trách nhiệm nhiều hơn. “Nông dân thâm canh quy mô lớn sử dụng nhiều tài nguyên của đồng bằng, thường tạo ra ô nhiễm đáng kể – trong khi sống cuộc sống của họ ở các thành phố lớn, cách xa đồng bằng.”

Tuy nhiên, bà Thanh nhấn mạnh, điều này không miễn trừ trách nhiệm của những người nông dân quy mô nhỏ. “Trước đây, có nhiều sự hợp tác giữa các trang trại. Họ sẽ dùng chung máy bơm nước và cùng nhau bảo trì các kênh rạch. Trong mùa thu hoạch, nông dân sẽ cùng nhau giúp đỡ lẫn nhau cho đến khi hoàn thành mọi công việc. Tâm lý này đã dần biến mất và cần được hồi sinh”, bà lập luận. Bà Thanh nhấn mạnh rằng nếu không có sự hợp tác của địa phương, nông dân quy mô nhỏ sẽ không thể vượt qua những thách thức nghiêm trọng mà họ đang gặp phải.

Nhìn về phía trước

Một dự án đi theo hướng tiếp cận này là Mekong Salt Lab – sự hợp tác giữa các công ty, cơ sở giáo dục và đơn vị chính quyền địa phương của Việt Nam và Hà Lan nhằm nâng cao năng lực địa phương nhằm thích ứng với biến đổi khí hậu và sụt lún đất. Dự án được quản lý bởi The Water Agency với sự tham gia của Kim Delta. Mục tiêu là để phát triển hơn nữa kiến ​​thức chuyên môn về giảm thiểu và thích ứng với độ mặn - bao gồm quản lý nước ngọt, cộng với quy hoạch tổng hợp và thích ứng - và sau đó chuyển giao kiến ​​thức này cho nông dân địa phương. Trong số nhiều giải pháp thiết thực và chi phí thấp đang áp dụng hệ thống nuôi thủy canh tiết kiệm nước, xử lý và tái sử dụng nước thải cũng như lưu trữ nước mưa dư thừa trong các hồ chứa, chẳng hạn như ao cá dự phòng, đặc biệt hữu ích trong việc làm loãng nước biển do thủy triều mang vào.

Điều mà Mekong Salt Lab và Kim Delta cũng đang xem xét là việc phát triển và sử dụng các giống và giống chịu mặn cho các nhà sản xuất nuôi trồng thủy sản và nông dân trồng các loại cây trồng khác. “Chính phủ Việt Nam có thể sẽ loại bỏ dần việc nuôi cá tra, cá rô phi và tôm nước ngọt khổng lồ ở những khu vực bị ảnh hưởng nặng nề nhất bởi xâm nhập mặn. Thay vào đó, người nông dân đã khuyến nghị nên tập trung vào tôm biển,” Starmans chỉ ra. Việc phát triển các giống loài chịu mặn như cá rô phi cũng đang được xem xét.

Phương pháp sản xuất độc đáo

Bà Thanh tin rằng các nhà khai thác nuôi trồng thủy sản địa phương quy mô nhỏ nên xem xét áp dụng hình thức nuôi trồng tổng hợp. Cách tiếp cận này đã tồn tại hàng nghìn năm trong khu vực và kết hợp chăn nuôi, nuôi cá với sản xuất rau trên cùng một mảnh đất, tái sử dụng dòng chất thải và giảm thiểu đầu vào bên ngoài. Nhiều chuyên gia đồng ý rằng đây là cách tiếp cận bền vững hơn để sản xuất lương thực, có khả năng chống chọi tốt hơn với những tác động khó lường của biến đổi khí hậu.

Kỹ năng quản lý đất và nước tốt cũng cần thiết để duy trì năng suất của trang trại, đặc biệt đối với những người điều hành làm việc ở vùng đồng bằng. May mắn thay, Việt Nam đã khôn ngoan giữ được kiến ​​thức canh tác truyền thống. Starmans giải thích: “Mọi trẻ em Việt Nam đều được học về hệ thống canh tác VAC khép kín tích hợp ở trường tiểu học. Hệ thống VAC lâu đời của Việt Nam [Vườn, Ao, Chuồng: tiếng Việt dành cho khu vườn, ao và chăn nuôi] là một cách để người nuôi cá và tôm quy mô nhỏ phân tán rủi ro, đồng thời tránh xa các động thái của nước ngoài để thúc đẩy các hoạt động độc canh tập trung vào loài đơn lẻ, thường được điều hành bởi các tập đoàn lớn để cạnh tranh với nông dân sản xuất nhỏ. Bằng cách không bỏ trứng vào một giỏ, những người đề xuất VAC có thể tiếp tục kiếm được lợi nhuận, ngay cả trong những điều kiện có thể thay đổi.

Thật vậy, bà Thanh muốn thực hành phát triển trang trại kiểu mẫu tổng hợp ở giữa vùng đồng bằng – và thực sự sống ở đó. “Với Kim Delta, chúng tôi đang lên kế hoạch kết hợp sản xuất cá với rau và trái cây để cho nông dân địa phương thấy cách thực hiện bền vững bằng cách sử dụng một số giải pháp mà chúng tôi đã phát triển”. “Nó không chỉ là chuyển giao kiến ​​thức mà còn là tạo không gian để nông dân gắn kết, đoàn kết. Quan trọng nhất, chúng tôi muốn mang lại tiếng nói cho những người nông dân quy mô nhỏ để họ được lắng nghe và trở thành một phần vững chắc trong tương lai của ĐBSCL.”

Chúng ta có thể học được gì từ ĐBSCL

Đất bị lún, nhiễm mặn và ô nhiễm không chỉ là những vấn đề mà nông dân và người nuôi trồng thủy sản ở sông Mê Kông phải đối mặt - Đồng bằng Irrawaddy của Myanmar, Đồng bằng sông Chao Phraya của Thái Lan, thậm chí cả Đồng bằng Pampanga của Philippines cũng phải đối mặt với những vấn đề tương tự. Những người nuôi tôm, cá quy mô nhỏ và những người sản xuất cây trồng sẽ cần phải làm việc cùng nhau và đoàn kết để được lắng nghe và trở thành một phần của tương lai. Chỉ có những hành động được lên kế hoạch và phối hợp tốt mới có thể ngăn chặn phần lớn các vùng đồng bằng trong khu vực chìm xuống vực thẳm.

Theo The Fishsite

Admin

ADB hỗ trợ vốn cho nhà sản xuất cá chẽm Australis

Bài trước

Tin vắn ngành chăn nuôi ngày 2/8

Bài sau

Bài viết tương tự

Bình luận

Trả lời bình luận

Địa chỉ email của bạn sẽ được bảo mật. Các trường * là bắt buộc

Xem thêm Thủy sản